Bản án 158/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 158/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 134/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 139/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lo Văn M, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Bản V, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 08/12; Dân tộc: Ơ Đu; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lo Văn M, sinh năm 1933 ( đã chết) và con bà Mạ Thị Q, tự khai không biết năm sinh (Chết năm 1985); Họ tên vợ: Lo Thị Nga, sinh năm 1987, có 02 con: lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 11/5/2020, tạm giữ từ ngày 12/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam số II – Công an TP Hà Nội. “Có mặt”. Người bào chữa cho bị cáo M: Ông Lê Quang Đạo – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội. “Có mặt”.

2. Lương Văn T, sinh năm 1985; Nơi cư trú: Bản Đ, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 09/12; Dân tộc: Thái;

Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lương Công D, sinh năm 1949 và con bà Vy Thị T, sinh năm 1955; Họ tên vợ: Lô Thị T, sinh năm 1984, có 02 con: lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 11/5/2020, tạm giữ từ ngày 12/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam số II – Công an TP Hà Nội. “Có mặt”. Người bào chữa cho bị cáo T: Bà Nguyễn Thị Kim Dung – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội – Chi nhánh số 11; Địa chỉ liên hệ: Nhà văn hóa huyện K, thị trấn Q, huyện K, Hà Nội. “Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa”.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

- Anh Vũ Văn H, sinh năm 1990; Nơi cư trú: XX, tỉnh Thái Bình “Vắng mặt”.

- Anh Lo Văn T, sinh năm 1983; Nơi cư trú: xx, tỉnh Nghệ An. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 19 giờ ngày 11/5/2020 khi đang ở lán trọ công nhân ở tổ dân phố O, TT Q, huyện K, Hà Nội thì Lo Văn M rủ Lương Văn T đi mua ma túy về cùng sử dụng, T đồng ý. M đưa cho T 100.000 đồng để đi mua ma túy, T cầm tiền và đi xe máy biển số 29M1-18xx đến khu vực quận Hoàng M, Hà Nội gặp và mua của một người đàn ông không quen biết ở ven đường một gói ma túy loại Heroine giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T về đưa cho M gói ma túy. Sau đó, M lấy một phần ma túy Heroine cho vào xi lanh của M để sử dụng và chia cho T, Hợi một phần ma túy. Số ma túy còn lại, M gói lại cất giấu trên chiếu, sau đó M cầm xi lanh kim tiêm có chứa ma túy vào nhà vệ sinh sử dụng, còn T đang sử dụng ma túy thì T ở cùng phòng thấy vậy cũng tham gia sử dụng ma túy với T bằng hình thức hít, Hợi cũng sử dụng ma túy bằng hình thức chích. Sau khi sử dụng ma túy xong M lên giường ngồi cùng T, Hợi, T thì Công an vào kiểm tra, M thấy vậy đã cất gói ma túy còn lại ở mặt dưới chiếu thì bị Công an phát hiện bắt giữ cùng gói ma túy.

Vật chứng T giữ khi bắt giữ các đối tượng :

- Vật chứng T giữ của M: 01 gói giấy nhỏ màu trắng bên trong có chất bột màu trắng; 01 chiếc xi lanh kim tiêm;

- T giữ của Lương Văn T: 01 chiếc xe máy kiểu dáng Honda Dream BKS 29M1- 18xx số khung: 000007962, số máy: 01066809 đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Redmi đã qua sử dụng, có sim liên lạc;

- T giữ của Lo Văn T: 01 điện thoại di động Readme đã qua sử dụng, có sim liên lạc.

Tại Kết luận giám định số 3813/KLGĐ-PC09 ngày 20/5/2020 của Phòng kỹ Tật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,139 gam; 01 xi lanh có dính ma túy loại Heroine.

Bản cáo trạng số: 134/CT-VKS ngày 03/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố đối với Lo Văn M và Lương Văn T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên Tòa:

Bị cáo M, bị cáo T thừa nhận và đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, 38, 58, Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 ; Điều 106 và khoản 1 Điều 290 BLTTHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Về hình phạt: đề nghị xử phạt bị cáo Lo Văn M mức án từ 14 – 16 tháng tù, hạn tù tính từ ngày 11/5/2020 Đề nghị xử phạt bị cáo Lương Văn T mức án từ 12-14 tháng tù, hạn tù tính từ ngày 11/5/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng:

- Cho tịch T, tiêu hủy số ma túy T giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm lưu hành gồm: 0,112 gam Heroine và 01 chiếc xi lanh kim tiêm có dính ma túy loại Heroine - Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HonDa Dream BKS 29M1 – 18xx, số khung: 000007962, số máy: 01066809, do cơ quan Công an T giữ của bị can T, theo T khai là xe mượn của anh Vũ Văn H, sinh năm 1990, trú tại: Tân Hòa, Hưng Hà, Thái Bình, anh H khai chiếc xe máy này anh mua lại của một người đàn ông không rõ nhân thân, khi mua có đăng ký xe, sau đó anh H có giao xe cho người tên Huy là công nhân sử dụng, trong quá trình sử dụng, Huy làm mất đăng ký xe và biển số xe 29M9 – 3535, sau đó Huy nhặt được BKS 29M1 – 18xx lắp vào xe sử dụng. Qua xác minh Biển số 29M1 – 18xx, chủ xe là Nguyễn Xuân Quang, địa chỉ: 152B tổ 10A Trung Liệt, Hà Nội; xe có số máy: 21017810, số khung 00110604; Xác minh theo số khung: 000007962, số máy: 01066809 thì xe có biển số 29M9 – 3535, chủ xe là Bùi Đình Hải, sinh 1967, địa chỉ: 5, Tôn Đức Thắng, Hà Nội. Ông Bùi Đình Hải đã chết ngày 11/5/2019. Xác minh tại phường Trung Liệt: Qua rà soát hệ thống dữ liệu dân cư, sổ sách và rà soát địa bàn thì không xác định được và không có ai tên là Nguyễn Xuân Quang sinh sống và có hộ khẩu thường trú ở địa chỉ trên. Việc bị cáo T sử dụng chiếc xe máy trên để đi mua ma túy ngày 11/5/2020 do anh H không biết bị cáo T dùng chiếc xe máy trên để đi mua ma túy đề nghị trả chiếc xe lại cho anh Vũ Văn H. Đối với biển số của xe máy, không làm rõ chủ sở hữu biển số xe nên cho tịch T tiêu hủy đối với biển số 29M1- 18xx.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Redmi đã qua sử dụng, có sim liên lạc số 0394782757 và 0917684897 T giữ bị cáo của Lương Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội đề nghị trả lại cho bị cáo - Đối với 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Readme đã qua sử dụng, có sim liên lạc 0345401451 và 0334224306 T giữ anh Lo Văn T là tài sản của anh T không liên quan hành vi phạm tội đề nghị trả lại cho anh T.

* Người bào chữa cho bị cáo Lo Văn M: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo M được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo có cơ hội được tiếp tục rèn luyện với sự giám sát của gia đình, xã hội, để bị cáo có cơ hội được sửa chữa lỗi lầm, trở thành người công dân có ích cho xã hội * Người bào chữa cho bị cáo Lương Văn T: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo T được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo có cơ hội được tiếp tục rèn luyện với sự giám sát của gia đình, xã hội, để bị cáo có cơ hội được sửa chữa lỗi lầm, trở thành người công dân có ích cho xã hội

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo trình tự thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng hình sự. Ngoài ra quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì khác về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội:

- Xét bị cáo M, bị cáo T bị bắt quả tang, T giữ ma túy là Heroine khối lượng 0,139 gam, tại phiên tòa bị cáo M, bị cáo T thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, phù hợp với kết luận giám định, với lời khai của người tham gia sử dụng ma túy cùng M và T là anh T, anh Hợi nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo M và bị cáo T rủ nhau đi mua Heroine về để sử dụng, sau khi mua được Heroine về M, T có hành vi tàng trữ 0,139 gam Heroine để sử dụng. Hành vi của bị cáo M và bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS, quy định loại ma túy Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Bị cáo M rủ T đi mua Heroine về cùng sử dụng, T đồng ý, M đưa T 100.000 đồng, T đi mua, nên vụ án này hai bị cáo cùng thực hiện với vai trò đồng phạm, đều với vai trò thực hành tích cực. M bột phát rủ, T đồng ý ngay, nên không có chủ mưu, cầm đầu. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm khách thể là chính sách độc quyền của Nhà nước về chất ma túy cần phải xử lý mức án nghiêm trong khung hình phạt cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục và phòng ngừa chung, tuy nhiên tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra hai bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, hai bị cáo đều là người dân tộc Ơ đu và Thái, nên cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho hai bị cáo là có căn cứ. .

- Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo M, bị cáo T không có nghề nghiệp T nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo T, do không xác định được nhân thân, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

Đối với anh T, anh Hợi cùng sử dụng Heroine với bị cáo M và bị cáo T, ngày 06/8/2020 Công an huyện K đã xử lý hành chính là phạt tiền đối với anh Hợi anh T là có căn cứ.

[3]. Về vật chứng của vụ án:

- 0,112 gam Heroine sau khi trích mẫu đi giám định về còn, 01 xi lanh có dính ma túy loại Heroine là vật Nhà nước cấm lưu hành cho tịch T tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream T giữ của T, có số khung: 000007962, số máy: 01066809, đăng ký xe máy biển số của ông Bùi Đình Hải, sinh năm 1967, địa chỉ số 5 Tôn Đức Thắng, Hàng Bột, Đống Đa, Hà Nội, hiện ông Hải đã chết, đến nay xác định xe máy Tộc tài sản của anh Vũ Văn H quản lý sử dụng, anh Hiển không biết T dùng vào việc phạm tội, nên trả lại cho anh Vũ Văn H chiếc xe máy trên là có căn cứ.

- Đối với Biển số xe 29M1-18xx, xác minh chủ xe là anh Nguyễn Xuân Quang, địa chỉ 152B, tổ 10A, Trung Liệt, Hà Nội, đến nay không xác định được nhân thân của anh Quang, nên cho tịch T tiêu hủy biển số 29M1- 18xx là có căn cứ.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di dộng màn hình cảm ứng, màu xanh đen, mặt sau có chữ Redmi đã qua sử dụng, có sim liên lạc số 0394782757 và 0917684897 T giữ bị cáo của Lương Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội trả lại cho bị cáo T là có căn cứ. (BL 65).

- Đối với 01 chiếc điện thoại di dộng màn hình cảm ứng, màu xanh đen, mặt sau có chữ Readme đã qua sử dụng, có sim liên lạc 0345401451 và 0334224306 T giữ anh Lo Văn T là tài sản của anh T không liên quan hành vi phạm tội, trả lại cho anh T là có căn cứ. (BL 68).

[4].Về án phí: Các bị cáo Lo Văn M và Lương Văn T là người dân tộc thiểu số nên được miến án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, 38, 58, Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015;

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 3xx, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn, giảm, T nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Lo Văn M và bị cáo Lương Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

- Bị cáo Lo Văn M 14 (Mười bốn) tháng tù, hạn tù tính từ ngày 11/5/2020.

- Bị cáo Lương Văn T 13 (Mười ba) tháng tù, hạn tù tính từ ngày 11/5/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với 02 bị cáo.

Về vật chứng:

- Tịch T tiêu hủy 0,112 gam Heroine và 01 xi lanh có dính ma túy loại Heroine.

- Tịch T tiêu hủy 01 Biển số xe 29M1-18xx.

- Trả lại anh Vũ Văn H 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, có số khung: 000007962, số máy: 01066809.

- Trả lại bị cáo Lương Văn T 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Redmi đã qua sử dụng, có sim liên lạc số 0394782757 và số 0917684897.

- Trả lại anh Lo Văn T 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Readme đã qua sử dụng, có sim liên lạc số 0345401451 và số 0334224306.

(Vật chứng trên được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện K và Chi cục thi hành án dân sự huyện K ngày 21 tháng 9 năm 2020).

Về án phí: Miễn cho mỗi bị cáo Lo Văn M và bị cáo Lương Văn T 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo M, bị cáo T có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lo Văn T, anh Vũ Văn H vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 158/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:158/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về