Bản án 158/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 158/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 173/2020/TLST-HS ngày 12/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2020/QĐXXST-HS ngày 16/11/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Triệu Văn Đ, sinh năm 1991 tại xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; Nơi cư trú: thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: không; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông Triệu Văn B (đã chết) và con bà Hoàng Thị T; Có vợ: Lương Thị L và có 03 con; Tiền án, tiền sự: không; Bị bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).

- Người làm chứng:

1/ Anh Tạ Văn T, sinh năm 1996; Địa chỉ: Thôn K, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

2/ Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1995; Địa chỉ: Tổ dân phố S, thị trấn N, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

- Người chứng kiến: Anh Đỗ Văn G, sinh năm 1984; Địa chỉ: Tổ dân phố N, thị trấn N, huyện V, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 03 giờ ngày 11/8/2020, tại nhà của Triệu Văn Đ ở thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, do có nhu cầu sử dụng chất ma túy nên Đ điện thoại cho một người đàn ông (Đ khai không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này, Đ chỉ biết người đàn ông này tên là T, cao khoảng 1,6 mét, dáng người gầy, Đ không nhớ đã dùng điện thoại nào để điện thoại cho T và không nhớ số điện thoại của người đàn ông tên T này) hỏi mua 2.000.000 đồng tiền ma túy tổng hợp dạng đá. T đồng ý và hẹn giao dịch ma túy tại khu vực gầm cầu vượt ĐT thuộc thị trấn N, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Khoảng 04 giờ ngày 11/8/2020, Đ đi taxi đến khu vực chân cầu vượt ĐT thuộc tổ dân phố H, thị trấn N, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Đ gọi điện thoại cho T đến đón. Khoảng 15 phút sau, T đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream màu nâu (Đ khai không nhớ biển kiểm soát của xe) đến đón Đ và đưa Đ đến thuê phòng nghỉ tại phòng số 203, Nhà nghỉ ĐD thuộc tổ dân phố T, thị trấn B, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Tại đây, Đ hỏi T về số ma túy đã hẹn giao dịch thì T nói chưa có và hẹn đến 07 giờ ngày 11/8/2020 sẽ có. Sau đó, T đi khỏi nhà nghỉ đến khoảng 07 giờ ngày 11/8/2020, T quay lại phòng số 203, nhà nghỉ ĐD. T nói với Đ “Đưa tiền đây, anh đi lấy”, Đ đưa cho T số tiền 2.000.000 đồng tiền mua ma túy. T cầm tiền và đi ra ngoài khoảng 30 phút sau quay lại nói với Đ “Anh đi theo em”. Sau đó, T điều khiển xe mô tô Honda Dream chở Đ đi đến khu vực đường Quốc lộ 37 thuộc khu Công nghiệp ĐT, huyện V, tỉnh Bắc Giang. T bảo Đ xuống xe đứng đợi ở đó rồi T điều khiển xe mô tô một mình vào một ngõ bên tay phải (hướng từ ngã tư ĐT lên đường cao tốc Hà Nội- Bắc Giang). Khoảng 05 phút sau, T quay lại và đưa Đ đến gầm cầu vượt ĐT; trên đường đi, T đưa cho Đ 01 gói khăn giấy màu trắng, bên trong đựng 01 túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khoá bằng nhựa, viền màu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng là ma tuý tổng hợp dạng đá. Đ cất số ma túy vừa mua được vào cạp quần phía trước bên phải đang mặc. Sau đó, T đưa Đ đến khu vực gầm cầu vượt ĐT để Đ bắt xe về nhà. Đến khoảng 08 giờ 10 phút cùng ngày 11/8/2020 khi đi đến gầm cầu ĐT thì Đ xuống xe, T điều khiển xe mô tô bỏ đi còn Đ đang đứng ở khu vực gầm cầu vượt thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu tại cạp quần phía trước bụng Đ đang mặc 01 gói khăn giấy màu trắng, bên trong đựng 01 túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khoá bằng nhựa viền màu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng (nghi là ma tuý tổng hợp). Toàn bộ số ma túy trên được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT”.

Quá trình bắt quả tang, Triệu Văn Đ tự nguyện giao nộp: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng, số seri: FK1RKWFPGRYF.

Ngày 11/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an tỉnh Bắc Giang đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang giám định đối với vật chứng thu giữ được niêm phong trong phong bì có ký hiệu “QT”.

Tại bản kết luận giám định số 1041/KL-KTHS ngày 12/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

Trong 01 (một) phong bì ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khoá bằng nhựa, viền màu đỏ, được đựng trong 01 (một) gói khăn giấy màu trắng là ma tuý, có khối lượng 3,070 gam, loại Methamphetamine.

Cùng ngày 11/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an tỉnh Bắc Giang tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Triệu Văn Đ tại thôn B, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn và nơi thuê nghỉ của Triệu Văn Đ tại phòng 203, nhà nghỉ ĐD thuộc tổ dân phố T, thị trấn B, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Kết quả không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Đối với người đàn ông tên T, cao khoảng 1,6 mét, dáng người gầy bán ma tuý cho Triệu Văn Đ ngày 11/8/2020; quá trình điều tra Đ khai không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên xác minh tại Công an thị trấn N, huyện V không xác định được người đàn ông nào có đặc điểm như Điệp khai nên Cơ quan điều tra đã tách các tài liệu liên quan đến người thanh niên này ra khỏi hồ sơ vụ án tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 161/CT-VKS ngày 09/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đã truy tố Triệu Văn Đ ra trước Tòa án nhân dân huyện Việt Yên để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Triệu Văn Đ thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có trong hồ sơ vụ án, bị cáo thừa nhận số lượng chất ma túy bị thu giữ khi bị bắt là của bị cáo do bị cáo mua để sử dụng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Triệu Văn Đ từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên là hợp pháp, không có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Triệu Văn Đ thừa nhận đã mua chất ma túy để sử dụng bị thu giữ. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng của vụ án, kết luận giám định và lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, các tài liệu khác thu thập được, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 15 phút ngày 11/8/2020, tại khu vực gầm cầu vượt ĐT thuộc tổ dân phố H, thị trấn N, huyện V, tỉnh Bắc Giang, Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý- Công an tỉnh Bắc Giang phát hiện, bắt quả tang Triệu Văn Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép 3,070 gam chất ma tuý Methamphetamine, với mục đích để sử dụng.

[3] Bị cáo Triệu Văn Đ là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo mua chất ma túy mục đích để sử dụng với số lượng thu được là 3,07 gam chất ma tuý Methamphetamine nên Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết án bị cáo Triệu Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, vi phạm vào điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ chất ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành, sử dụng trái phép chất ma túy là một trong những tệ nạn xã hội cần bài trừ bởi nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới các hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp tài sản, giết người..., là nguyên nhân dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng rất xấu tới sức khỏe con người, đời sống xã hội, do vậy cần xử lý nghiêm bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt vì chưa bị kết án, chưa bị xử lý hành chính lần nào.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Triệu Văn Đ không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo Triệu Văn Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất vụ án, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội về ma túy, không thuộc hộ nghèo, cận ngèo nhưng không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản đảm bảo việc thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Số lượng chất ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone thu giữ của bị cáo có liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Triệu Văn Đ 03 (Ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ: ngày 11/8/2020.

[2] Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Tịch thu tiêu hủy toàn bộ 01 phong bì thư niêm phong dán kín, có ký hiệu "QT", một mặt có 05 dấu giáp lai của Công an thị trấn N, huyện V, tỉnh Bắc Giang, một mặt có 04 dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang và chữ ký của những người có liên quan (bên trong có 3,048 gam chất ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định).

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu hồng, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, có số Seri FK1RKWFPGRYF.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Bị cáo Triệu Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 158/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:158/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về