Bản án 158/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 158/2020/HS-ST NGÀY 10/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 136/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 365/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Đức T, sinh ngày 12/11/1988 tại Hải Phòng. ĐKNKTT: Số 75/61/278 Đ, phường V, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 284 L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Đức T và bà Phạm Hương H; tiền sự: Có 01 tiền sự (chưa được xóa): Ngày 03/8/2019 Công an quận Ngô Quyền xử phạt hành chính theo Quyết định số 34 về hành vi trộm cắp tài sản; nhân thân: Có 01 tiền án đã xoá (Án số 131/2006/HSST ngày 11/9/2006 Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng xử phạt 30 tháng tù tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/5/2006. Thi hành án dân sự xong ngày 07/8/2014); bị tạm giữ ngày 20/6/2020; tạm giam ngày 23/6/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ ngày 20/6/2020, Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Lê Chân thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp số 46 ngày 20/6/2020 đối với chỗ ở của Hoàng Thị Khánh Linh, sinh năm 1974 tại nhà số 103 Nguyễn Công Hòa, phường Lam Sơn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng – là nghi can bán trái phép chất ma túy cho đối tượng Lương Xuân Tới, sinh năm 1991, ĐKTT: thôn Chi Lai, Trường Thành, An Lão, Hải Phòng bị can trong vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy khởi tố số 80 ngày 19/6/2020. Trong lúc khám xét tổ công tác phát hiện tại nhà Linh có mặt Bùi Đức T có biểu hiện cất giữ trái phép chất ma túy nên đã tiến hành kiểm tra, thu giữ tại túi quần sau bên phải của T đang mặc có 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của T số 01 điện thoại di động Samsung màu vàng, 01 điện thoại Viettel màu đỏ, 01 xe máy Nouvo biển kiểm soát 29D1 – 56825, số tiền 80.000 đồng và đưa T cùng vật chứng về trụ sở Công an quận lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Đức T khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 17/6/2020, T gặp bạn xã hội tên Dũng (không biết lai lịch cụ thể) tại một quán nước vỉa hè khu vực Cát Bi, quận Hải An, Hải Phòng. Dũng biết T có sử dụng ma túy đá nên đã cho T 01 túi nilon đựng ma túy đá. T mang số ma túy trên về nhà, lấy một ít ra sử dụng, số ma túy còn lại T vẫn để trong túi nilon rồi cho vào trong túi quần sau bên phải mục đích mang theo người khi nào có nhu cầu thì sử dụng. Đến 11 giờ ngày 20/6/2020 T một mình đi xe máy, biển kiểm soát 29D1 – 56825 đến nhà bạn là Hoàng Thị Khánh Linh tại số 103 Nguyễn Công Hòa, phường Lam Sơn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng chơi. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ như trên. T không nói cho Linh biết việc mình cất giữ ma túy trong người. T không biết vì sao Linh bị lực lượng Công an thực hiện lệnh khám xét khẩn cấp và việc Linh mua bán và cất giữ trái phép chất ma túy.

Hoàng Thị Khánh Linh khai là bạn quen biết với T, khoảng 11 giờ ngày 20/6/2020 T đến nhà Linh chơi. Linh không biết việc T cất giữ ma túy trong người, cũng không nói cho T biết về việc Linh mua bán và cất giữ chất ma túy.

Tại Bản Kết luận giám định số 381/KQGĐ ngày 22/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hải Phòng kết luận: “Tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu giữ của Bùi Đức T là ma túy có khối lượng 0,23 gam là loại Methamphetamine” Tại Bản cáo trạng số 152/CT-VKSLC ngày 30/9/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Bùi Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như nội dung bản cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Đức T mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói và lượng ma túy còn lại sau giám định số 381/2020/PC09 (vật Nhà nước cấm lưu hành). Trả lại bị cáo: 01 điện thoại di động Samsung màu vàng; 01 điện thoại Viettel màu đỏ và số tiền 80.000 đồng thu giữ của bị cáo (là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội).

Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về hòa đồng với xã hội và cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng thu giữ; Bản kết luận giám định số 381/KQGĐ ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa; lời khai đó thể hiện: Ngày 20/6/2020 Bùi Đức T có hành vi cất giữ trái phép 0,23 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân bị bắt quả tang tại nhà số 103 đường Nguyễn Công Hòa, phường Lam Sơn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[3] Như vậy hành vi của bị cáo đã thỏa mãn yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo Bùi Đức T theo tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý chất gây nghiện và là nguyên nhân gây lên các tệ nạn xã hội, các bệnh dịch nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án nên phải xử lý nghiêm.

- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên nhân thân bị cáo có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản (chưa được xóa); 01 tiền án (đã được xóa) nên lần phạm tội này của bị cáo không bị coi là tái phạm song thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, cần buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Đối với lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định (đã được niêm phong trong bì thư niêm phong số 381/2020/PC09) xét là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

[9] Đối với 01 điện thoại di động Samsung màu vàng; 01 điện thoại Viettel màu đỏ và số tiền 80.000 đồng (Tám mươi ngàn đồng) thu giữ của bị cáo, xét đây là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[10] Đối với 01 chiếc xe máy Nouvo biển kiểm soát 29D1 - 56825 thu giữ của bị cáo do chưa xác minh làm rõ được nguồn gốc nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân lưu giữ để tiếp tục xác minh xử lý sau.

[11] Đối với việc thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Thị Khánh Linh, tổ công tác Công an quận Lê Chân phát hiện thu giữ ma túy và các đồ vật, tài sản khác liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Linh. Do hành vi phạm tội của Linh và T không liên quan với nhau nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã ra Quyết định khởi tố vụ án số 82 ngày 24/6/2020, Quyết định khởi tố bị can đối với Hoàng Thị Khánh Linh về tội Mua bán trái phép chất ma túy để điều tra trong một vụ án riêng.

[12] Đối với người nam giới tên Dũng đã cho T ma túy, quá trình điều tra không xác định được lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra.

[13] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Đức T 24 (Hai mươi tư) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 20 tháng 6 năm 2020.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định đã được niêm phòng trong bì thư niêm phong số 381/2020/PC09 (là vật Nhà nước cấm lưu hành).

Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Samsung màu vàng; 01 điện thoại Viettel màu đỏ và số tiền 80.000 đồng (Tám mươi ngàn đồng) thu giữ của bị cáo (là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội).

(Số tiền này đã được nộp vào Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân theo Biên lai thu tiền số 0004593 ngày 01/10/2020) Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2020 giữa Cơ quan Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Đức T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

- Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 158/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:158/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về