Bản án 158/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 158/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 235/2020/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2020 về việc "Tranh chấp ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/8/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 88/2020/QĐST-HNGĐ ngày 19/8/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Trương Thành P, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Chị Đinh Nguyễn Kiều Mai L, sinh năm 1989.

Địa chỉ: ấp B, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

(anh P có đơn xin vắng mặt, chị L vắng mặt không có lý do)  bày:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, nguyên đơn anh Trương Thành P trình Anh và chị Đinh Nguyễn Kiều Mai L kết hôn vào năm 2017, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận kết hôn số 51 ngày 26/6/2017. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu đến khoảng đầu năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do chị L vướng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy và trong cuộc sống vợ chồng chị L có những cư xử không đúng mực, anh và chị L đã ly thân từ tháng 8 năm 2018 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn và hôn nhân không hạnh phúc nên anh xin được ly hôn với chị L.

Về con chung: Có 01 con chung là Trương Đinh Hoàn T, sinh ngày 01/11/2017. Ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, chị L vắng mặt nên không có lời khai. Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định.

Trong vụ án này, các đương sự được xác định đúng tư cách pháp lý của đương sự, đảm bảo việc thu thập chứng cứ, việc cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho đương sự và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nghiên cứu đúng thời gian quy định.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Trương Thành P.

Về con chung: Đề nghị giao con chung là Trương Đinh Hoàn T, sinh ngày 01/11/2017 cho anh P được trực tiếp nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con chung:

anh P không có yêu cầu nên không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Theo anh P trình bày anh và chị L không có tài sản chung và nợ chung, chị L không có lời khai nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập; thông báo về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa và các văn bản tố tụng cho bị đơn, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không lý do, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, do đó, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 227, 228 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh P và chị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và đã được ủy ban nhân dân xã Tam An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 51 ngày 26/6/2017, nên được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Theo lời khai của anh P thì sau khi anh và chị L kết hôn chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu, đến khoảng đầu năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do chị L vướng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy và trong cuộc sống vợ chồng chị L có những cư xử không đúng mực, anh và chị L đã ly thân từ tháng 8 năm 2018 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn và hôn nhân không hạnh phúc nên anh xin được ly hôn với chị L.

Tòa án đã nhiều lần triệu tập và thông báo về phiên hòa giải để tạo điều kiện hòa giải cho anh P và chị L hàn gắn đoàn tụ nhưng anh P vẫn cương quyết xin ly hôn còn chị L vắng mặt không lý do, cho thấy mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng, chị L có thái độ bỏ mặc, không muốn hàn gắn tình cảm và mối quan hệ hôn nhân với anh P. Ngoài ra, theo chứng cứ do Tòa án thu thập thể hiện ngày 14/8/2020 chị Đinh Nguyễn Kiều Mai L đã bị tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 128/2020/HS-ST, cho thấy lời khai của anh P về mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc chị L sử dụng trái phép chất ma túy là đúng sự thật. Xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh P.

[3] Về con chung: Anh P và chị L có 01 con chung là Trương Đinh Hoàn T, sinh ngày 01/11/2017. Ly hôn anh P yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, mặc dù cháu T chưa đủ 36 tháng tuổi, tuy nhiên ngày 14/8/2020 chị L đã bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” và xử phạt hình phạt tù (bản án chưa có hiệu lực pháp luật) nên xác định chị L không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình, giao cháu T cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho cháu. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh P không có yêu cầu nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Theo anh P trình bày anh và chị L không có tài sản chung và nợ chung. Do chị L không có lời khai nên Hội đồng xét xử không xem xét. Các đương sự được quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vấn đề tài sản chung và nợ chung bằng vụ án khác khi có tranh chấp.

[5] Về án phí: anh P phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

 [6] Nhận định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - anh Trương Thành P:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Trương Thành P được ly hôn với chị Đinh Nguyễn Kiều Mai L.

Về con chung: Giao con chung Trương Đinh Hoàn T, sinh ngày 01/11/2017 cho anh Trương Thành P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục sau khi ly hôn. Tạm thời chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Đinh Nguyễn Kiều Mai L được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung khi cần thiết, các đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Anh Trương Thành P phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí sơ thẩm anh P đã nộp tại biên lai số 0003338 ngày 06/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành. Anh P đã nộp đủ án phí.

Anh P, chị L có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 158/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:158/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về