TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 157/2020/HS-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 156/2020/TLST- HS ngày 15 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2020/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 8 năm 2020 đối với Bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm;
1965 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản CN, xã NL, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): 02/10; Con ông: Lò Văn P (đã chết) và con bà: Lò Thị T1 (đã chết); vợ là Lò Thị T2, sinh năm: 1962; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1993; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án xét xử.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 17/5/2020 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ ngày 17/5/2020 Lò Văn T đi bộ một mình từ nhà ở bản CN, xã NL, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Đi xuống khu vực bản N, xã NL, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên. Mục đích đi tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đi Bị cáo mang theo số tiền 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng). Khi đi đến khu vực đường thuộc bản Nôm, xã NL, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên, Bị cáo gặp một người đàn ông khoảng 50 tuổi (Không biết tên, địa chỉ). Bị cáo hỏi “Có Heroine bán không? Bán cho năm mươi nghìn đồng”. Người đàn ông trả lời “Có, đưa tiền đây”. Sau đó Bị cáo lấy tiền từ trong người ra một tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền và đưa lại cho Bị cáo một gói được gói bên ngoài bằng vỏ bao thuốc lá du lịch, Bị cáo cầm lấy xem qua và biết bên trong gói có các cục bột Heroine, rồi đồng ý mua. Mua bán xong người đàn ông đó đi đâu Bị cáo không biết. Bị cáo cất gói Heroine vừa mua được vào túi áo ngực bên trái đang mặc rồi đi bộ quay về nhà. Trên đường về đến khu vực bản CN, xã NL, huyện ĐB thì gặp tổ công tác Công an xã NL đang làm nhiệm vụ, tổ công tác yêu cầu Bị cáo đứng lại để kiểm tra. Qua kiểm tra tổ công tác phát hiện, thu giữ tại túi áo ngực bên trái của Bị cáo đang mặc 01 gói được gói bên ngoài bằng giấy vỏ bao thuốc lá du lịch, mở bên trong có các cục bột mầu trắng nghi Heroine. Bị cáo khai nhận đó là Heroine, Bị cáo mua về để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng thu giữ toàn bộ số vật chứng. Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện để điều tra theo thẩm quyền.
Cùng ngày tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB tiến hành cân xác định khối lượng số vật chứng thu giữ như sau:
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 17/5/2020 đã xác định: Số cục chất bột màu trắng đục nghi Heroine của Lò Văn T có khối lượng là 0,11 gam, trích gửi giám định 0,06 gam không hoàn lại mẫu vật. Vật chứng còn lại 0,05gam.
Tại bản kết luận giám định số 440/GĐ-PC09 ngày 26/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.
Tại bản cáo trạng số 155/CT-VKSĐB ngày 13/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB truy tố bị cáo Lò Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo: Từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.
Tịch thu tiêu hủy: 0,11 gam Heroine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,06 gam, vật chứng còn lại là 0,05 gam).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc Bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.
Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo để Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo:
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 12 giờ ngày 17/5/2020 tại bản CN, xã NL, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên, Lò Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,11 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu T tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
… ...c....Heroine....có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam".
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố Bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.
[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở T công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của Bị cáo:
- Tình tiết tăng nặng: Bản thân bị cáo không có tình thiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Điện Biên được gia đình nuôi ăn học hết lớp 02/10 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình.
Năm 1985 kết hôn với chị Lò Thị T2 và có 02 người con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1993.
Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2008 cho đến ngày bị bắt.
Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với Bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.
Ngoài hình phạt chính Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập chủ yếu dựa vào lao động sản xuất nông nghiệp ngoài ra không có thu nhập nào khác, nên không có khả năng thi hành. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.
[4] Về vật chứng vụ án gồm: 0,11 gam Heroine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,06 gam, vật chứng còn lại là 0,05 gam), cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Các vấn đề khác:
Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ do Bị cáo mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực bản N, xã NL, huyện ĐB, quá trình điều tra không xác minh, làm rõ được. Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.
[6] Vê hanh vi, quyêt đinh tô tung cua cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:
Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hà nh tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.
[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị định số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 buộc Bị cáo phải chịu 200.000đ đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Xử phạt Bị cáo: 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (17/5/2020).
2. Về vật chứng vụ án:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
* Tịch thu tiêu hủy: 0,11 gam Heroine đã trích mẫu gửi giám định không hoàn lại là 0,06 gam. Vật chứng còn lại 0,05 gam Heroine.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ĐB và Chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB, tỉnh Điện Biên).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 157/2020/HS-ST ngày 21/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 157/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về