Bản án 157/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 157/2020/HS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 168/2020/HSST ngày 06 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2020/HSST-QĐ ngày 10 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: N C C, sinh năm 1985, tại tỉnh Th B; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: K 1B, phường Ch Ph H, thị xã B C, tỉnh B D; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Cha Ng V Ch, sinh năm 1958; mẹ Ph Th M, sinh năm 1962; bị cáo có 02 anh em, lớn sinh năm 1983, nhỏ là bị cáo.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 14/8/2015, Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 24 tháng, ngày 18/02/2017 chấp hành xong.

Ngày 19/4/2020, N C C bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay.

Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 01 giờ 40 phút ngày 19/4/2020 tại phía trước Văn phòng khu phố 2, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Công an thị xã Bến Cát phối hợp Công an phường Tân Định bắt quả tang N C C cất giấu trong túi áo bên trái phía trước đang mặc một bao thuốc lá hiệu Jet, màu trắng bên trong có 01 bịch nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, C khai nhận là ma túy đá nên lực lượng Công an tiến hành niêm phong thu giữ cùng xe mô tô hiệu Sirius, màu trắng - đen, biển số 68G1 – 420.12 và bắt giữ C.

Quá trình điều tra, N C C khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 18/4/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên C điều khiển xe mô tô biển số 68G1 – 420.12 đi đến khu vực cầu vượt An Sương thuộc Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 250.000 đồng ma túy đá, người đàn ông đưa cho C một bịch ma túy hàn kín, C bỏ ma túy vào một bao thuốc lá hiệu Jet, màu trắng và cất giấu trong túi áo bên trái phía trước đang mặc, rồi điều khiển xe chạy về nhà tại khu phố 1B, phường Chánh Phú Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Trên đường về, C ghé vào một quán cà phê (không rõ địa chỉ) lấy một ít ma túy ra sử dụng, số còn lại C cất vào vị trí như ban đầu, rồi điều khiển xe đi đến khu vực chợ Hoàng Gia thuộc khu phố 2, phường Tân Định, thị xã Bến Cát chơi. Khoảng 01 giờ 40 phút ngày 19/4/2020, khi đang đứng phía trước Văn phòng khu phố 2 để nạp tiền vào tài khoản momo trên điện thoại thì C bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Theo Kết luận giám định số 226/MT-PC09 ngày 23/4/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma tuý, loại methamphetamine, có khối lượng: 0,1788 gam. Mẫu vật sau giám định được niêm phong có khối lượng 0,1191 gam.

Đối với xe mô tô biển số 68G1 – 420.12, do cha của C là ông N V C làm chủ sở hữu hợp pháp. Ngày 18/4/2020, C mượn xe mô tô của ông C để đi công việc, ông C không biết C sử dụng xe mô tô đi mua ma túy. Ngày 20/5/2020, Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử lý vật chứng số 241 trao trả xe mô tô biển số 68G1 – 420.12 cho ông N V C.

Tại bản Cáo trạng số 178/CT-VKS ngày 06 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo N C C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo N C C đã khai nhận 0,1788 gam methamphetamin mà Công an phát hiện, bắt giữ và thu được khi kiểm tra vào ngày 19/4/2020 là của N C C mua của người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch tại khu vực cầu vượt An Sương thuộc Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh với giá 250.000 đồng, mục đích để sử dụng.

Bị cáo có ông nội tên Ng C B được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba và ông ngoại tên Ph V X được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, Huy chương kháng chiến hạng nhì.

Tại phiên tòa, qua phần hỏi và tranh tụng công khai đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm buộc tội bị cáo theo tội danh, điều luật như Cáo trạng số 178/CT-VKSBC ngày 06 tháng 8 năm 2020 đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo N C C mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận, thống nhất với tội danh, điều luật và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát truy tố và đề nghị.

Lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo N C C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng số 178/CT-VKS ngày 06 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 18/4/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy, C điều khiển xe mô tô biển số 68G1 – 420.12 đi đến khu vực cầu vượt An Sương thuộc Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng) nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu hành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính…; c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Như vậy, bản Cáo trạng số 178/CT-VKS ngày 06/8/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo N C C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù hợp với hành vi thực tế mà bị cáo đã gây ra.

[3] Về tính chất, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tình chất: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo biết tác hại của ma túy không chỉ huỷ hoại sức khoẻ con người mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là hết sức nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuý mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương. Do đó, cần phải xét xử bị cáo thật nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa C trong toàn xã hội.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; bị cáo có ông nội là Ng C B được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba và ông ngoại tên Ph V X được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, Huy chương kháng chiến hạng nhì đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) bì thư dán kín số 226/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,1191 gam methamphetamin, đây là chấm cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô biển số 68G1 – 420.12, là của ông N V C Công an thị xã Bến Cát trao trả cho ông C là có căn cứ.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, điều luật là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị là nặng so với hành vi của bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định thấp hơn.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo N C C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo N C C 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/4/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) bì thư dán kín số 226/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,1191 gam methamphetamin. Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/8/2020 giữa Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương với Chi cục Thi hành án thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:157/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về