Bản án 156/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 156/2020/HS-ST NGÀY 04/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 175/2020/HSST ngày 20 tháng 8 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 164/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: T đen; Sinh năm: 1984 tại Đồng Nai; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Ấp Bàu Lùng, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa; Trình độ học vấn: 04/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị S, sinh năm: 1957; Vợ: Làm Mỹ Y, sinh năm 1992; Có 01 người con sinh năm 2009; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 31/12/2019 bị Công an huyện T ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; Bị tạm giữ từ ngày 29/5/2020 và chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện L (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người làm chứng:

Anh Võ Trần Minh T, sinh năm 2000.

Nơi cư trú: Ấp An Viễng, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T sử dụng ma túy tổng hợp dạng đá từ năm 2019. Lúc 10 giờ 30 phút ngày 29/5/2020, T gọi điện cho một người đàn ông tên G (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy. T điều khiển xe mô tô (không có biển số) của Nguyễn Thành T đến khu vực huyện T, tỉnh Đồng Nai gặp G. Tại đây, G đưa cho T 01 gói nylon chứa ma túy được hàn kín hai đầu, kích thước khoảng 1,5cm x 03cm với giá 600.000 đồng. Sau đó T giấu gói ma túy trên dưới chiếc dép xốp màu trắng và đè bàn chân trái lên. Đến 11 giờ 30 cùng ngày, khi đang điều khiển xe mô tô trên đến khu vực ấp Bàu Lùng, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai thì bị công an xã B yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra phát hiện dưới bàn chân trái của T có gói nylon chứa ma túy nên lập biên bản phạm tội quả tang cùng vật chứng chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng, tài sản thu giữ: 01 gói nylon màu trắng kích thước khoảng 1,5cm x 03cm được hàn kín hai đầu, bên trong chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma túy và 01 xe mô tô không có biển số, số khung MG1102801930, số máy P53FMH10339830.

Tại Kết luận giám định số 1116/KLGĐ-PC09 ngày 03/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy có khối lượng 0,5314 gam loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 187/CT-VKSNT ngày 17 tháng 8 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện L giữ nguyên quyết định truy tố theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 16 (mười sáu) đến 18 (mười tám) tháng tù.

Đối với người đàn ông tên G có hành vi bán ma túy cho T nhưng không rõ nhân thân; lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L tiếp tục xác minh, điều tra xử lý sau.

Về xử lý vật chứng: 01 phong bì được niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 1116/KLGĐ-PC09 ngày 15/6/2020, đề nghị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật; Đối với xe mô tô không có biển số, số khung MG1102801930, số máy P53FMH10339830 T khai mượn của Nguyễn Thành T để đi chở củi nhưng T lại sử dụng để mua ma túy, quá trình điều tra xác minh không xác định được chủ sở hữu, đồng thời Nguyễn Thành T không có mặt ở địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L tiếp tục điều tra xử lý sau.

Bị cáo Nguyễn Văn T nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với tang vật của vụ án đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/5/2020 tại khu vực ấp Bàu Lùng, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ 0,5314 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị lực lượng công an xã B phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Tại Kết luận giám định số 1116/KLGĐ-PC09 ngày 03/6/2020 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy có khối lượng 0,5314 gam loại Methamphetamine. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

 [3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bà nội và bác ruột của bị cáo là người có công với cách mạng là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Việc tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy là nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại về tài sản, là nguồn lây lan nhiều căn bệnh nguy hiểm, là nguyên nhân gia tăng các loại tội phạm về hình sự. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Đối với người đàn ông tên Giáp có hành vi bán ma túy cho T nhưng không rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L tiếp tục xác minh, điều tra xử lý sau là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 phong bì được niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 1116/KLGĐ-PC09 là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô không có biển số, số khung MG1102801930, số máy P53FMH10339830 T khai mượn của Nguyễn Thành T đi để đi chở củi nhưng T lại sử dụng để mua ma túy, quá trình điều tra xác minh không xác định được chủ sở hữu, đồng thời Nguyễn Thành T không có mặt ở địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L tiếp điều tra xử lý sau là đúng quy định pháp luật.

[7] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2020.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì được niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 1116/KLGĐ-PC09, hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L theo biên bản bàn giao tang vật ngày 18 tháng 8 năm 2020.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 156/2020/HS-ST ngày 04/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:156/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về