TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 156/2019/HS-PT NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 121/2019/TLPT-HS ngày 20 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Lê Duy Q. Do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2019/HS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố S.
- Bị cáo bị kháng nghị:
Lê Duy Q, sinh năm 1987; Tại huyện C, tỉnh Đ; Nơi cư trú: Số XXX đường Hùng Vương, Khóm XX, Phường XX, thành phố S, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Thành L, sinh năm 19XX và bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 19XX; Vợ: Trần Thị N, sinh năm 19XX; Con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 16/3/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố S áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện tỉnh Đ với thời hạn là 20 tháng; Ngày 09/11/2018, bị Công an Phường XX, thành phố S xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Nhân thân: Ngày 24/12/2008 bị Tòa án Quân sự khu vực 1, Quân khu 9 xử phạt 03 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/02/2011, thi hành xong phần án phí vào ngày 16/02/2009; Bắt tạm giam: ngày 29/01/2019; Hiện đang bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp, có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không kháng cáo. Bị cáo Lê Duy Q có kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Duy Q có tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 23/11/2018, Q điều khiển xe mô tô biển số 66K7-1597 lưu thông trên đường, khi đi ngang nhà anh Phạm Kỹ T tọa lạc số 18, ấp P, xã T, thành phố S, Q nhìn thấy trên cây mít của anh T trồng ở mé sông có 01 trái mít to được bao lưới bên ngoài, Q dùng dao Thái Lan cắt cuốn lấy trái mít và để trên baga xe mô tô rồi điều khiển xe tẩu thoát. Anh T phát hiện và bắt giữ Q rồi thông báo cho Công an xã T, thành phố S đến thu giữ của Q:
- 01 trái mít (Q vừa hái trộm của anh T);
- 01 xe mô tô biển số 6XK7-1XXX;
- 01 con dao Thái Lan dài khoảng 20cm, có cán bằng nhựa màu vàng.
Tại biên bản và kết luận định giá tài sản số 51/HĐ.ĐGTS ngày 10/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản thành phố S kết luận: 01 trái mít có trọng lượng 11kg, loại mít Thái, có trị giá là 275.000 đồng.
Trong thời gian bị khởi tố vụ án, bị cáo Q được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (tại ngoại) thì khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22/12/2018, Lê Duy Q tiếp tục rủ Phạm Ngọc H đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền mua ma túy sử dụng thì được H đồng ý. H điều khiển xe mô tô biển số 6XFX-7XXX chở Q đến quán Hương Lan tọa lạc đường Nguyễn Văn N, Khóm X, Phường X, thành phố S, do chị Lê Thị Ngọc H1 làm chủ. H đứng ở ngoài canh đường, còn Q leo hàng rào đi vào trong quán lấy trộm 02 cái bàn Inox rồi đem ra đưa cho H. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở Q cùng với 02 cái bàn Inox về nhà H tại Phường X, thành phố S. Sau đó, Q bán 01 cái bàn Inox cho chị Lê Thị Tuyết H2 với giá 200.000 đồng, còn H bán 01 cái bàn Inox cho bà Lâm Thị H3 với giá 220.000 đồng. Số tiền bán 02 bàn Inox có được 420.000đ, Q và H mua ma túy về cùng sử dụng.
Tại biên bản và kết luận định giá tài sản số 01/HĐ.ĐGTS ngày 14/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố S kết luận: 02 cái bàn Inox có trị giá là 660.000 đồng.
Tại bản án số 17/2019/HS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố S đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê Duy Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Duy Q 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/01/2019.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 07 tháng 5 năm 2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tình Đồng Tháp có quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2019/HS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố S, với nội dung đề nghị cấp phúc thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Duy Q và giảm hình phạt cho bị cáo Lê Duy Q.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định kháng nghị và cho rằng hành vi của bị cáo Lê Duy Q bị Tòa án cấp sơ thẩm quy kết về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp 02 lần nhưng mỗi lần đều chưa đủ định lượng, việc cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” đối với bị cáo Q là bất lợi cho bị cáo. Xét mức hình phạt 01 năm mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; các điểm b, c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận Kháng nghị số 10/QĐ- VKS-P7 ngày 07/5/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2019/HS-ST ngày 10/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố S về phần áp dụng pháp luật và hình phạt đối với bị cáo Lê Duy Q theo hướng: Sửa bản án sơ thẩm, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lê Duy Q tư 01 đến 03 tháng tù.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không tranh luận mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Duy Q đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định: Lê Duy Q là đối tượng đã có tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”, nhưng vào các ngày 23/11/2018 và ngày 22/12/2018, Q đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 trái mít của anh Phạm Kỹ T và 02 cái bàn Inox của chị Lê Thị Ngọc HI với tổng trị giá là 935.000 đồng.
[2] Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo Lê Duy Q là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi đó đã gây xôn xao dư luận, gây hoang mang trong dư luận quần chứng nhân dân, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo là đối tượng đã từng có tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Lẽ ra, sau khi bị xử phạt hành chính, bị cáo phải biết sửa chữa bản thân, chí thú làm ăn lương thiện để tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân và gia đình, nhưng bị cáo không làm được điều này mà vẫn chứng nào tật ấy. Chỉ vì bản tính tham lam, muốn nhanh chóng có tiền để phục vụ nhu cầu của bản thân nên bị cáo đã có hành vi phạm tội như đã nêu trên. Bị cáo thừa biết việc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, là có tội nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Chứng tỏ bị cáo xem thường kỷ cương pháp luật.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Duy Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp 02 lần nhưng mỗi lần đều chưa đủ định lượng. Việc cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” đối với bị cáo là bất lợi cho bị cáo. Từ đó dẫn đến việc áp dụng mức hình phạt 01 năm tù đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Do đó, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, giảm mức hình phạt tù cho tương xứng với tính chất và mức độ từ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.
Ngoài ra, trong vụ án này bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội trong thời điểm khác nhau nhưng ở cùng một địa phương, cùng một tội danh, phát hiện hành vi sau trong thời hạn điều tra hành vi trước. Thế nhưng, Cơ quan điều tra đã ra 02 quyết định khởi tố vụ án về tội “Trộm cắp tài sản” là chưa thực hiện đúng các quy định tại Thông tư liên tịch số 04 ngày 19/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, sai sót này không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án, xét thấy không cần thiết hủy án nhưng cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm về vấn đề này.
Xét kháng nghị số 10/QĐ-VKS-P7 ngày 07 tháng 5 năm 2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2019/HS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố S là hoàn toàn có căn cứ nên chấp nhận.
[4] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo Q là phù hợp pháp luật, nên chấp nhận.
[5] Bị cáo Lê Duy Q không phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Chấp nhận Kháng nghị số 10/QĐ-VKS-P7 ngày 07 tháng 5 năm 2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2019/HS-ST ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố S, sửa án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt tù đối với bị cáo Lê Duy Q.
Tuyên bố bị cáo Lê Duy Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Duy Q 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/01/2019.
Về án phí: Bị cáo Lê Duy Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 156/2019/HS-PT ngày 28/06/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 156/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về