Bản án 156/2018/HSST ngày 20/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 156/2018/HSST NGÀY 20/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 165/2018/HSST, ngày 30 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 166/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Hà Ngọc L; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1994; tại thị trấn TC, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu S, thị trấn TC, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: La động tự do; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Hà Văn P, sinh năm: 1967 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: Ngày 17-11-2017 bị chủ tịch UBND thị trấn Thuận Châu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại thị trấn do đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với thời hạn 03 ( ba) tháng; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 29-6-2018, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 10 phút, ngày 29-6-2018, Đội cảnh sát hình sự Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu A, thị trấn TC, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Hà Ngọc L, trú tại: Tiểu khu S, thị trấn TC, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

- 01 (một) gói nilon màu hồng, bên trong có chứa 03 ( Ba) viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp ( L khai là hồng phiến), có khối lượng 0,29 gam. Rút toàn bộ ký hiệu L1làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

- 01 chiếc xe mô tô BKS: 26 H1 – 095.12, màu trắng, số khung: 082101, số máy: 0082148, loại xe Wave @, nhãn hiệu HONDA, xe đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số: 848/KLGĐ, ngày 05-7-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là chất ma túy, loại chất Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,29gam loại Methamphetamine”. ( Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Hà Ngọc L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 29-6-2018, Hà Ngọc L điều khiển xe mô tô BKS: 26 H1-095.12, loại xe Wave @, nhãn hiệu HONDA từ nhà ở tiểu khu S, thị trấn TC, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xuống khu vực xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La L hỏi và mua được của một nam thanh niên dân tộc Thái đứng ven đường ( L không biết tên và địa chỉ cụ thể) 03 ( ba) viên hồng phiến được gói bằng nilon màu hồng với số tiền là 210.000đ. Sau khi mua được ma túy L cầm gói ma túy trên tay trái rồi điều khiển xe máy đi về. Khi L đi đến khu vực tiểu khu A, thị trấn TC, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu dừng xe kiểm tra ma túy, qua kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Hà Ngọc L về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ cùng vật chứng như đã nêu.

Bản cáo trạng số: 138/CT-VKS, ngày 30-8-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Hà Ngọc L về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hà Ngọc L về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hà Ngọc L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hà Ngọc L mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29-6-2018.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Hà Ngọc L.

Chấp nhận việc cơ quan điều tra đã trao trả lại chiếc xe mô tô BKS: 26 H1 – 095.12, màu trắng, số khung: 082101, số máy: 0082148, loại xe Wave @, nhãn hiệu HONDA cho ông Lường Văn P.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106  Bộ Luật tố tụng hình sự  năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01( một) mảnh nilon màu hồng + 01 (một) vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

Bị cáo phải chịu toàn bộ án phí HSST theo quy định.

Ý kiến của bị cáo Hà Ngọc L: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo sớm được trở lại với gia đình và cộng đồng xã hội. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1]. Ngày 29-6-2018, Hà Ngọc L; nơi cư trú: Tiểu khu S, thị trấn TC, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 03(ba) viên ma túy tổng hợp có trọng lượng 0,29 gam, qua giám định là Methamphetamine. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Hà Ngọc L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định :

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)……………………….

c) Hêrôine, côcaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hà Ngọc L, tàng trữ trái phép chất ma tuý với số lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Hà Ngọc L.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Hà Ngọc L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015.

Song nhân thân bị cáo đã có một tiền sự chưa được xóa án tích. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo Hà Ngọc L đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 BLTTHS năm 2015.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Hà Ngọc L còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS năm 2015. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy Hà Ngọc L khai mua của một người thanh niên dân tộc Thái tại bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La với giá 210.000đ vào ngày 29-6-2018 nhưng L không biết họ tên và địa chỉ cụ thể ở đâu. Do vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với chiếc xe máy BKS: 26 H1 – 095.12, màu trắng, số khung: 082101, số máy: 0082148, loại xe Wave @, nhãn hiệu HONDA, xe đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định được chiếc xe trên là của ông Lường Văn P; trú tại: Tiểu khu S, thị trấn TC, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, việc bị cáo Hà Ngọc L mượn và sử dụng chiếc xe đi mua ma túy ông P không biết. Ông P có đơn xin lại xe. Do vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã trao trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ, đúng pháp luật.

 [2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

 [3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 01( một) mảnh nilon màu hồng + 01 (một) vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ xét không cón giá trị sử dụng cần tuyên tiêu hủy. Vận dụng Điều 47 BLHS năm 2015 và Điều 106 BLTTHS năm 2015

 [4]. Về án phí: Bị cáo Hà Ngọc L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung của Nhà nước. Vận dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Ngọc L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hà Ngọc L 15 ( mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29-6-2018 ( là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng: Tiêu hủy 01( một) mảnh nilon màu hồng + 01 (một) vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

4. Về Án phí: Bị cáo Hà Ngọc L phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hà Ngọc L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 156/2018/HSST ngày 20/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:156/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về