Bản án 155/2021/HS-ST ngày 24/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 155/2021/HS-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 5 năm 2021, tại phòng xử án A, trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 118/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thế V (Tên gọi khác: R), Sinh ngày: 19 tháng 01 năm 1997, tại Đ;

Nơi ĐKHKTT: 60/10/16 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.

Chỗ ở: Tổ dân phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; con ông: Trần Thế P, sinh năm: 1973 và con bà: Huỳnh Thị Thu V, sinh năm: 1974; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: Không; 01 tiền án tại bản án hình sự sơ thẩm số 239/2018/HSST ngày 24/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (chưa được xóa án tích).

Bị áp tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột, từ ngày 25/3/2021 đến nay – Có mặt.

Nhân thân:

- Ngày 07/5/2015 bị Công an thành phố Buôn Ma Thuột khởi tố bị can về tội cố ý gây thương tích quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự (BLHS) đến ngày 07/5/2015 Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định đình chỉ điều tra bị can theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS).

- Ngày 11/5/2015, bị Công an thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác (đã chấp hành xong).

* Người bị hại: Bà Lương Thị Thúy V, sinh năm: 1987; Trú tại: 343 T, phường c, thành phố B, tỉnh Đ (có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị Ánh N, sinh năm: 1971; Trú tại: 112/7 L, thành phố B, tỉnh Đ (vắng mặt).

2. Ông Trần Thế P, sinh năm: 1973; Trú tại: Tổ dân phố 7, phường N, thành phố B, tỉnh Đ (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 19/3/2021 Trần Thế V điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ đen, biển số 61B1-336.52 của ông Trần Thế P, đi tìm nhà nào sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đi đến nhà may T, địa chỉ: 358 Phan Bội Châu, phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, V phát hiện 01 xe đạp điện khung xe màu trắng, có số máy: JINMA48V350W160801453 của chị Lương Thị Thúy V đang được để ở đường luồng nhà may T không có người trông coi nên V đã dừng xe lại, đi tới đẩy xe đạp điện ra chỗ xe mô tô, bê xe đạp lên yên xe mô tô và đi tìm nơi tiêu thụ. Khi V đi đến cửa hàng bán quần áo địa chỉ 105 Trần Bình Trọng, thành phố Buôn Ma Thuột gặp bà Lê Thị Ánh N, V hỏi bà N có mua xe đạp điện không. Bà N không biết tài sản do V trộm cắp mà có nên đồng ý mua với giá 300.000 đồng. Sau khi bán được tài sản, V đi đến khu vực siêu thị Coopmart thuộc thành phố B nhờ 01 nam thanh niên tên B (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mua ma túy để sử dụng. Còn chị Lương Thị Thúy V đã trình báo với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột. Đến ngày 25/3/2021, bà Lê Thị Ánh N đã tự nguyện giao nộp 01 xe đạp điện hiệu EXERCISE, khung xe màu trắng phục vụ công tác điều tra.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 57/KL-HĐĐGTS ngày 27/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận: 01 xe đạp điện hiệu EXERCISE, khung xe màu trắng, số máy: JINMA48V350W160801453, đã qua sử dụng, trị giá 2.500.000 đồng.

Cáo trạng số: 158/CT-VKS-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Trần Thế V về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng với diễn biến sự việc ma Viên kiêm sat đã truy tố.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua phân tích, đánh giá tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đồng thời đề cập các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đề nghị:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thế V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS: Xử phạt bị cáo Trần Thế V mức án từ 09 tháng đến 01 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 25/3/2021.

- Về xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại 01 xe đạp điện hiệu EXERCISE, khung xe màu trắng, số máy: JINMA48V350W160801453 và 01 xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ đen, biển số 61B1-336.52 cho bà Lương Thị Thùy V và ông Trần Thế P là các chủ sở hữu nhận sử dụng là phù hợp.

Đề nghị truy thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng thu lợi bất chính của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì và khiếu nại về hành vi của những người tiến hành tố tụng, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Qua đó có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 19/3/2021, tại nhà may T, địa chỉ: 358 Phan Bội Châu, phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, bị cáo Trần Thế V đã lén lút trộm cắp 01 xe đạp điện hiệu EXERCISE, khung xe màu trắng, số máy: JINMA48V350W160801453 của chị Lương Thị Thùy V, trị giá 2.500.000 đồng bị Việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ pháp luật.

Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Hơn nữa bị cáo có tiền án về tội chiếm đoạt tài sản nên cần áp dụng mức hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, vì vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo giáo dục riêng đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong đời sống xã hội về loại tội phạm này.

[3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản phạm tội có giá trị không lớn và đã thu hồi được, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điêm h , s khoan 1 Điêu 51 BLHS nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nên cần chấp nhận.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột trả lại 01 xe đạp điện hiệu EXERCISE, khung xe màu trắng, số máy: JINMA48V350W160801453 và 01 xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ đen, biển số 61B1-336.52 cho bà Lương Thị Thùy V và ông Trần Thế P là các chủ sở hữu là phù hợp.

Đối với số tiền 300.000 đồng bà Lê Thị Ánh N bỏ ra mua xe đạp điện hiệu EXERCISE từ bị cáo, nay không yêu cầu bị cáo trả lại nên cần truy thu sung ngân sách Nhà nước số tiền nêu trên.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu câu gì nên không đê câp xem xet.

[6] Nội dung khác: Xét ông Trần Thế P không biết việc bị cáo sử dụng xe mô tô hiệu Yamaha biển số 61B1-336.52 để làm phương tiện phạm tội; bà Lê Thị Ánh N khi mua xe đạp điện hiệu EXERCISE không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không xem xét xử lý đối với ông Phú, bà N là phù hợp.

Đối với người tên “Bi” mua ma túy giúp cho bị cáo. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Vê tôi danh : Tuyên bố bị cáo Trần Thế V (Tên gọi khác: R) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Vê hinh phat : Áp dụng khoản 1 Điều 173; điêm h, s khoan 1 Điêu 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xư phạt bị cáo Trần Thế V 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giam 25/3/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột 01 xe đạp điện hiệu EXERCISE, khung xe màu trắng, số máy: JINMA48V350W160801453 và 01 xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ đen, biển số 61B1-336.52 cho bà Lương Thị Thùy V và ông Trần Thế P là các chủ sở hữu là phù hợp.

Truy thu sung ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính của bị cáo là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

4. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu câu gì nên không xem xet.

5. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Thế V phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ khi tuyên án. Người bị hại, ngươi co quyên lơi nghia vu liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 155/2021/HS-ST ngày 24/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:155/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về