Bản án 155/2021/HNGĐ-ST ngày 08/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 155/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 95 /2021 /TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXX-ST ngày 10 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Số nhà 12/1 đường B, Phố V, thị Trấn B, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1961.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà 12/1 đường B, Phố V thị Trấn B, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi tạm trú: Đường 02 thôn H, xã Hoằng Th, huyện H Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn chị Hoàng Thị H, bị đơn anh Nguyễn Văn H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/3/2021, bản tự khai 02/4/2021 và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn chị Hoàng Thị H thể hiện:

Tôi (H) và anh Nguyễn Văn H tự nguyện kết hôn với nhau năm 1997 được UBND thị Trấn B cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng sống bình thường cho đến thời gian gần đây thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H thường xuyên đánh tôi và dọa nạt tôi làm tôi hoang mang và sợ hãi. Vợ chồng sống ly thân hơn 03 tháng nay không ai quan tâm đến ai. Nay tôi nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị tòa án giải quyết cho tôi xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về con: Vợ chồng tôi có 02 con chung Nguyễn Ngọc Khánh, sinh ngày 01/9/1998; cháu thứ hai Nguyễn Thị Hồng Vân, sinh ngày 24/10/2004. Hiện nay cháu Khánh đã trưởng thành nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu Vân hiện nay đang ở với tôi. Nay ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi cháu và yêu cầu anh H cấp dưỡng mỗi tháng là 2.000.000đ( Hai triệu đồng). Đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 08/4/2021 của anh Nguyễn Văn H thể hiện:

Về hôn nhân: Tôi (H) và cô Hoàng Thị H tự nguyện kết hôn với nhau, được UBND thị Trấn B, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 1997. Sau khi cưới vợ chồng sống bình thường, cho đến cuối năm 2020 thì chúng tôi mới xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do cô H có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác. Khi tôi biết về mối quan hệ này, thì cô H đã nhận lỗi và xin tha thứ để gia đình yên ấm và tôi cũng mong muốn cô H nên bỏ qua mọi chuyện, nhưng không hiểu vì lý do gì mà cô H làm đơn xin ly hôn tôi. Nay cô H làm đơn xin ly hôn, quan điểm của tôi là vẫn mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Nên tôi đề nghị Tòa án hòa giải để chúng tôi về đoàn tụ.

Về con: Vợ chồng tôi có 02 con chung Nguyễn Ngọc Khánh, sinh ngày 01/9/1998; cháu thứ hai Nguyễn Thị Hồng Vân, sinh ngày 24/10/2004. Hiện nay cháu Khánh đã trưởng thành nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu Vân ở với ai tùy nguyện vọng của cháu, còn nếu cháu không ở với cô H cháu có nguyện vọng ở với tôi thì tôi cũng đồng ý nuôi cháu và không yêu cầu cô H cấp dưỡng còn nếu cháu ở với cô H tôi có trách nhiệm cấp dưỡng.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai của cháu Nguyễn Thị Hồng Vân thể hiện: Cháu là con của bố H, Mẹ H.

Nay bố mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng được ở với mẹ.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về quá trình tố tụng và đề xuất hướng giải quyết vụ án: Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo luật định. Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H kết hôn năm 1997. Vợ chồng sống với nhau cho đến năm 2020 vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay chị H có nguyện vọng xin ly hôn anh H. Tuy nhiên anh H không có mặt tại phiên tòa ngày 27/5/2021 cũng như phiên tòa hôm nay anh H đều vắng mặt. Anh có nguyện vọng xin được đoàn tụ với chị Hiền. Đại diện VKS nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: Vợ chồng chị H, anh H có 02 con chung Nguyễn Ngọc Khánh, sinh ngày 01/9/1998; cháu thứ hai Nguyễn Thị Hồng Vân, sinh ngày 24/10/2004. Hiện nay cháu Khánh đã trưởng thành nên không giải quyết. Cháu Vân hiện nay đang ở với chị H. Từ khi vợ chồng sống ly thân cháu Vân ở với chị H, chị đảm bảo cho cháu ăn học và phát triển bình thường, cháu Vân có nguyện vọng được ở với mẹ, nên đề nghị Tòa án tiếp tục giao cháu cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng: Chị Hoàng Thị H yêu cầu anh Hùng cấp dưỡng 2.000.000đ. Anh H đồng ý cấp dưỡng nếu chị H nuôi con. Do đó chấp nhận yêu cầu của chị H.

Về tài sản: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000đ( Ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Tại phiên tòa ngày 27/5/2021 anh Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng không có mặt, tại phiên tòa hôm nay anh không đến, HĐXX căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 BLTT Dân sự xử vắng mặt anh Nguyễn Văn H.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Hoàng Thị H không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ về yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thủ tục tố tụng: Chị Hoàng Thị H khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Văn H và xin được nuôi con chung. Căn cứ vào quy định tại Điều 68 BLTTDS xác định chị H là nguyên đơn, anh H là bị đơn.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Anh Nguyễn Văn H có địa chỉ tại Phố V Sơn, thị Trấn B, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[1.3] Về quan hệ pháp luật: Chị Hoàng Thị H khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Văn H và đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi con chung nên được xác định là tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc lĩnh vực dân sự.

Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân dẫn đến tình trạng tranh chấp mâu thuẫn theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự, lãnh đạo địa phương UBND thị Trấn B xác nhận: Anh Nguyễn Văn H và chị Hoàng Thị H tự nguyện kết hôn được UBND thị Trấn B cấp giấy chứng nhận kết hôn, vợ chồng anh chị có 02 con chung Nguyễn Ngọc Khánh, sinh ngày 01/9/1998; cháu thứ hai Nguyễn Thị Hồng Vân, sinh ngày 24/10/2004, mâu thuẫn của anh chị địa phương cũng không nắm bắt được.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H kết hôn với nhau vào năm 1997 trên cơ sở tự nguyện, do Ủy ban nhân dân thị Trấn B, huyện H cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau hòa thuận đến năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, không thể hòa giải nổi, vợ chồng đã sống ly thân. Anh H mong muốn được đoàn tụ nhưng tại phiên tòa ngày 27/5/2021 và tại phiên tòa ngày hôm nay, anh H không đến thể hiện sự bỏ mặc, không quyết tâm để gia đình đoàn tụ. Do đó HĐXX xét thấy tình cảm của anh chị thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị H đối với anh Nguyễn Văn H là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[2.2]Về con: Vợ chồng anh Nguyễn Văn H và chị Hoàng Thị H có 02 con chung Nguyễn Ngọc Khánh, sinh ngày 01/9/1998; cháu thứ hai Nguyễn Thị Hồng Vân, sinh ngày 24/10/2004. Hiện nay cháu Khánh đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với cháu Vân hiện nay cháu đang ở với chị H. Nay ly hôn chị H có nguyện vọng nuôi cháu và yêu cầu anh H cấp dưỡng mỗi tháng là 2.000.000đ( Hai triệu đồng).

Xét yêu cầu nuôi con của chị H: Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu nuôi con của chị H là phù hợp vì từ khi chị H và anh H ly thân cháu ở với chị H, chị vẫn đảm bảo cho cháu ăn học và phát triển tốt. Nên chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị H tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Hồng Vân cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng.

Chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị H: Anh H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cùng chị H mỗi tháng là 2.000.000đ( Hai triệu đồng).

[3]Về tài sản: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4]Về án phí: Nguyên đơn là chị Hoàng Thị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm; Bị đơn anh Nguyễn Văn H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51,56,57,58, 81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Ngọc Khánh, sinh ngày 01/9/1998; cháu thứ hai Nguyễn Thị Hồng Vân, sinh ngày 24/10/2004 là con chung của anh Nguyễn Văn H và chị Hoàng Thị H. Đối với cháu Khánh đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Giao cháu Nguyễn Thị Hồng Vân cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng 2.000.000đ( Hai triệu đồng), thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 6/2021 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi về pháp luật. Anh H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2019/ 0010338 ngày 25 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa. Chị H đã thi hành xong.

Anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000đ( Ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Nguyên đơn chị Hoàng Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn anh Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Trưng hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 155/2021/HNGĐ-ST ngày 08/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:155/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về