Bản án 155/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 155/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 12 tháng 11 năm 2019 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 155/2019/HSST, ngày 04 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2019/HSST-QĐ ngày 29 /10 /2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ánh V; Tên gọi khác: không; sinh ngày 11/02/1987, tại AD, HP; Nơi cư trú và chỗ ở: Thôn VP, xã ĐT, huyện AD, thành phố HP; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Con ông: Nguyễn Văn L, sinh năm 1963; con bà: Trần Thị D, sinh năm 1965; Vợ: Hoàng Thị T, sinh năm 1989; có 01 con, sinh năm 2017; Tiền án: tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 29/6/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cẩm Phả- Có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Các anh Lê Văn Nh, sinh năm 1982; Trịnh Văn H, sinh năm 1974 đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 09 giờ 10 phút ngày 29/6/2019, tại tổ 93, khu 7B, phường CP, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh; Công an thành phố Cẩm Phả phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Ánh V có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy với mục đích để bán. Thu giữ 01 túi nilon bên trong có 01 gói giấy quấn băng dính màu đen, trong gói giấy có 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, 01 ví giả da bên trong có 225.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Ánh V.

Tại Bản kết luận giám định số: 620/GĐMT ngày 02/7/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon thu của Nguyễn Ánh V là ma túy, loại Methamphetamine; Khối lượng 14,737 gam. Hoàn lại sau giám định 14,67 gam mẫu vật.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Ánh V khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy đá từ đầu năm 2018 đến nay. Khoảng 10 giờ ngày 28/6/2019, V nhận được điện thoại của Q bị cáo không biết cụ thể địa chỉ của Q mà chỉ biết Q có số điện thoại 0977234404, Q hỏi mua 30 gam ma túy đá, bị cáo đồng ý và báo giá là 15.000.000 đồng nhưng thực tế bị cáo chỉ mua được khoảng 20 gam ma túy đá với giá 8.000.000 đồng và báo với Q là khoảng 20 gam ma túy đá với giá 10.000.000 đồng. Q đồng ý mua rồi hẹn sáng ngày 29/6/2019 bị cáo mang ma túy đến thành phố D để bán cho Q. Khoảng 09 giờ ngày 29/6/2019 khi bị cáo mang ma túy đá đến khu vực trạm thu phí BOT phường CP, thành phố D rồi xuống xe và sang đường đứng đợi Q thì bị Công an bắt giữ. Ngoài bị thu 01 gói ma túy bị cáo còn bị thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, 01 ví giả da bên trong có 225.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Ánh V. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ do khoảng 04 giờ sáng ngày 29/6/2019 bị cáo đến khu vực đường tàu quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng gặp một nam thanh niên khoảng 30 tuổi hỏi mua 30gam ma túy đá, người thanh niên này báo giá 12.000.000 đồng, bị cáo đồng ý mua. Sau đó anh ta bỏ đi khoảng 5 phút sau quay lại báo với bị cáo chỉ còn khoảng 20 gam ma túy với giá 8.000.000 đồng. Bị cáo đồng ý mua ma túy và đưa tiền sau đó anh ta đưa ma túy cho bị cáo. Hai chiếc điện thoại bị thu giữ bị cáo đều dùng vào việc liên lạc mua bán ma túy với Q. 01 chiếc ví giả da, 01 chứng minh nhân dân và số tiền bị thu giữ 225.000 đồng và tiền bị cáo mua ma túy là của bị cáo do lao động mà có.

Bị cáo yêu cầu được nhận lại 225.000 đồng, 01 ví giả da và 01 chứng minh nhân dân. Bị cáo thấy Viện kiểm sát truy tố, Toà án xét xử ngày hôm nay là đúng người, đúng tội.

Những người chứng kiến anh Lê Văn Nh, Trịnh Văn H tuy vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra: Vào khoảng 9 giờ ngày 29/6/2019 các anh đi đến gần trạm thu phí BOT phường CP thì nhìn thấy lực lượng Công an bắt giữ một người nam thanh niên khai tên là Nguyễn Ánh V và thu giữ 01 túi nilon màu trắng bên trong có 01 gói giấy vệ sinh quấn băng dính đen hai đầu bên trong có một túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng, V khai nhận đó là ma túy đá V mang đi để bán cho người tên Q. Ngoài ra còn bị thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel vỏ màu đen, 01 ví giả da màu nâu bên trong có 225.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Ánh V.

Tại bản cáo trạng số: 155/CT-VKSCP, ngày 03/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Nguyễn Ánh V về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i, Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, đưa ra các chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm i, Khoản 2 Điều 251; điểm s, Khoản 1, Điều 51; Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Ánh V từ 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) năm tù giam về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/6/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo Vân không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo ân hận về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ánh V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, khẳng định việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Biên bản kiểm tra điện thoại; Bản ảnh vật chứng; Kết luận giám định số 620/GĐMT ngày 02/7/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Quảng Ninh. Với các chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 10 phút ngày 29/6/2019, tại khu vực tổ 93, khu 7B, phường CP, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Ánh V có hành vi tàng trữ trái phép 14,737 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để bán.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo không những gây mất an ninh trật tự của địa phương mà còn tiếp tay cho những kẻ buôn bán ma túy khác. Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng coi thường pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo V đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i, Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy:

[3.1] Tình tiết tăng nặng: Không có

[3.2] Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần tuyên truyền giáo dục pháp luật phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bị cáo có thể bị phạt tiền, xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm và không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[5] Về Vật chứng: Đối với số ma túy Methamphetamine, sau giám định hoàn lại mẫu vật trong 01 phong bì niêm phong số 620/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, 01 túi nilon màu trắng đã qua sử dụng ; 01 gói giấy vệ sinh quấn băng dính đen đây là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng Model A1429, số IMEI 013408005718754, máy có nhiều xết xước kèm 01 sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel. Màu đen, không thể hiện model và số IMEI kèm 02 sim, 01 pin bị cáo đã dùng để liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước; số tiền 225.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội và là tiền của bị cáo do thu nhập mà có nên trả lại cho bị cáo; 01 ví giả da màu nâu đã cũ đã qua sử dụng và 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Ánh V là tài sản và giấy tờ tùy thân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với người đàn ông theo Vân khai đã bán ma túy cho V tại Hải Phòng do không có thông tin cụ thể về nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Đối với đối tượng tên Q, qua xác minh là Đặng Tuấn Q (sinh năm 1984; trú tại tổ 102, khu 7, phường CP, thành phố D, tỉnh Quảng Ninh) hiện Q không có mặt tại địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm i, Khoản 2, Điều 251; điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ánh V, phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma  túy”

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ánh V 09 (chín) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/6/2019.

Căn cứ: Điểm a, b, c Khoản 1; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, b, c Khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy Methamphetamine trong 01 phong bì niêm phong số 620/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 túi nilon màu trắng đã qua sử dụng; 01 gói giấy vệ sinh quấn băng dính đen.

- Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng Model A1429, số IMEI 013408005718754, máy có nhiều vết xước kèm 01 sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, không thể hiện model và số IMEI kèm 02 sim, 01 pin.

- Trả lại bị cáo: Số tiền 225.000 đồng; 01 ví giả da màu nâu đã cũ đã qua sử dụng và 01 giấy chứng minh nhân dân mang trên Nguyễn Ánh V. Tình trạng vật chứng được thi hành theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 09/BB- THA, ngày 08/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Ánh V phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 155/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:155/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về