Bản án 155/2017/HSPT ngày 16/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 155/2017/HSPT NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16/8/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 120/2017/HSPT ngày 11/7/2017 đối với bị cáo Đặng Quang V do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2017/HSST ngày 09/06/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo: Đặng Quang V, sinh ngày 28/12/1990 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKNKTT: Tổ 18, phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: Tổ 15, phường V, quận K, thành phố Đà Nẵng; Số CMND: 201597046; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Con ông Đặng Văn H và bà Trương Thị S; Vợ là Dương Thị Bích N và 01 con sinh năm 2015; Tiền án: Chưa.

Tiền sự:

- Ngày 20/02/2016 bị Công an phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi "Sử dụng trái phép chất ma túy" theo Quyết định số 25/QĐ-VPHC.

- Ngày 20/02/2016 bị Công an phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính số tiền 200.000 đồng về hành vi "Gây rối trật tự công cộng" theo Quyết định số 26/QĐ-VPHC.

Bị cáo tại ngoại; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 21/11/2016, Đặng Quang V ngồi uống bia cùng anh Phạm Văn Duy A tại phòng trọ của Vinh tại tổ 15, phường V, quận K, thành phố Đà Nẵng. Được một lúc V mượn xe mô tô biển kiểm soát 43H3 - 1290 của anh A để đến nhà bà ngoại của V là bà Nguyễn Thị C tại địa chỉ K01/H41/25 đường Q, thành phố Đà Nẵng. Đến nơi, V để xe trước nhà bà C rồi đi bộ vào trong nhà. Khi đi qua phòng trọ của chị Ngô Thị Thu T, V nhìn thấy cửa phòng trọ mở bên trong không có người, trên giường có 01 ĐTDĐ hiệu Samsung J5. Lúc này V vẫn đi vào nhà bà C, được khoảng 10 phút thì ra về. Lúc về V tiếp tục nhìn vào trong phòng và không thấy ai nên lén lút đi vào phòng lấy trộm điện thoại cất giấu vào túi quần rồi về lại phòng trọ tiếp tục uống bia với A. Khi uống hết bia, A chở V đến tiệm cầm đồ TH tại 392 đường C, thành phố Đà Nẵng do chị Đoàn Thị H làm chủ tiệm để cầm cố điện thoại được số tiền 1.500.000 đồng. Anh A có hỏi V điện thoại ở đâu mà cầm cố thì V trả lời điện thoại mượn được của bà ngoại. Số tiền có được V dùng để mua bia để uống với anh A và tiêu xài cá nhân.

Giá trị tài sản bị cáo Đặng Quang V chiếm đoạt là 2.350.000 đồng.

Tại Bản án sơ thẩm số 61/2017/HSST ngày  09/6/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm g, h, p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Đặng Quang V 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Bản án còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 20/6/2017 bị cáo Đặng Quang V có đơn kháng cáo với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo Đặng Quang V có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy bị cáo V có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J5 trị giá 2.350.000đ của chị Ngô Thị Thu T nên Bản án sơ thẩm số 61/2017/HSST ngày 09/6/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội. Bản án sơ thẩm cũng đã xem xét vai trò, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Quang V 06 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo Đặng Quang V cũng thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là đúng tội và bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét kháng cáo của bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đặng Quang V khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 21 giờ ngày 21/11/2016, tại địa chỉ K01/H41/25 đường Q, phường V, quận K, thành phố Đà Nẵng, Đặng Quang V có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J5 trị giá 2.350.000đ của chị Ngô Thị Thu T. Do đó, Bản án sơ thẩm số 61/2017/HSST ngày 09/6/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã xét xử bị cáo Đặng Quang V về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

Xét kháng cáo của bị cáo Đặng Quang V: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Mặc dù giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt không lớn. Nhưng bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và gây rối trật tự công cộng. Bản án sơ thẩm đã đánh giá về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, đồng thời áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 06 tháng tù là phù hợp. Các quyết định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Do đó, căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bị cáo như Bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Quang V, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm g, h, p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Đặng Quang V 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Đặng Quang V phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 155/2017/HSPT ngày 16/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:155/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về