Bản án 154/2021/HSST ngày 28/07/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 154/2021/HSST NGÀY 28/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 7 năm 2021 tại hội trường xét xử 1, trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế (60 đường NH, thành phố H) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 125/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Quốc B (tên gọi khác: Không), sinh ngày 06 tháng 4 năm 1996 tại thành phố Đà Nẵng. Nơi cư trú: Tổ 53, phường X, quận T, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (Sinh năm 1968) và bà Nguyễn Thị Ngọc T (Sinh năm 1974); Anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất; vợ, con: Chưa có; tiền án: 02 tiền án; tiền sự: Không;

Nhân thân: Nhỏ sống với gia đình tại thành phố Đà Nẵng, học văn hóa đến lớp 12/12. Sau đó học trường Đại học N chưa tốt nghiệp thì nghỉ học;

Ngày 14/3/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế tuyên phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số 67/2017/HSST);

Ngày 22/3/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa tuyên phạt 01(một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của bản án số 67/HSST ngày 14/3/2017, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (hai) năm tù. Ngày 29/11/2019, bị can chấp hành xong án phạt tù.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/01/2021 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế cho đến nay - Bị cáo có mặt.

- Bị hại:

1/Anh Võ Quang T, sinh năm 1981. Địa chỉ: Khu nhà trọ H16 đường TTK, phường TA, thành phố H - vắng mặt.

2/Anh Trần Đại N, sinh năm 2002. Địa chỉ: 03 Đường QT, phường TA, thành phố H - vắng mặt.

3/Chị Đặng Thị Thương T, sinh năm 1993. Địa chỉ: 03 Đường QT, phường TA, thành phố H - vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1994. Địa chỉ: 06/199 Đường TP, phường PV, thành phố H - vắng mặt.

2/Anh Dương Văn T, sinh năm 1995. Địa chỉ: 13 Đường NB, phường AC, thành phố H - vắng mặt.

3/Chị Nguyễn Thị Bích S, sinh năm 1994. Địa chỉ: 219 Đường ATCC, phường TD, thành phố H - vắng mặt.

4/Anh Hoàng Nhật L, sinh năm 2000. Địa chỉ: 86/7 đường HHT, phường TC, quận T, thành phố Đà Nẵng – vắng mặt.

5/Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1968. Địa chỉ: H15/15 Đường PNX, phường HKN, quận LC, thành phố Đà Nẵng – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong các ngày 04/01/2021 và 06/01/2021, tại thành phố H, Nguyễn Quốc B đã 03 lần trộm cắp tài sản. Cụ thể:

Vụ thứ 1: Khong 17 giờ ngày 04/01/2021, Nguyễn Quốc B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 92H1-095.04 đi trộm cắp tài sản. Khi B đi đến trước Cư xá sinh viên DV II (địa chỉ: H16 TTK, phường TA, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế) thì phát hiện cổng của Cư xá không đóng nên B dừng xe mô tô trước cổng rồi đi vào bên trong. Khi B đi lên tầng 3 thấy không có người nên đi đến phòng số 17 của anh Võ Quang T dùng 01 (một) cờ lê đã chuẩn bị sẵn phá khóa cửa vào phòng lấy trộm được 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell 3558, màu đen; 01 (một) máy tính xách tay hiệu Apple loại Mac Book Pro, màu trắng và 01 (một) ổ cứng rời nhãn hiệu WD, màu đen anh T để trên gác lững của phòng rồi tẩu thoát. Trên đường đi, B ném chiếc cờ lê vào thùng rác ven đường, không xác định được vị trí nên không thu giữ được. Sau đó, B đến cửa hàng mua bán máy tính tại địa chỉ số 01 Đường DHT, phường PV, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế của anh Nguyễn Văn V bán chiếc máy tính nhãn hiệu Dell 3558 với giá 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). B tiếp tục đi đến cửa hàng mua bán điện thoại tại địa chỉ số 13 Đường NB, phường AC, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế của anh Dương Văn T (sinh năm 1995) bán chiếc ổ cứng rời nhãn hiệu WD với giá 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng). Sau khi mua ổ cứng này, anh T đã bán lại cho người khác nên không thu giữ được. Sáng ngày 05/01/2021, B đến cửa hàng mua bán máy tính K gặp chị Nguyễn Thị Bích S bán chiếc tính Apple loại Mac Book Pro với giá 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Toàn bộ số tiền bán được B sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ 2: Khong 8 giờ 30 ngày 06/01/2021, Nguyễn Quốc B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số 92H1-0095.04 đi đến trước nhà trọ số 03 Đường QT, phường TA, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, B thấy cổng ngoài khép hờ không khóa nên dừng xe mô tô trước cổng rồi đi vào bên trong. B đi lên tầng 2 của phòng trọ. Thấy dãy trọ tầng 2 không có người nên đi đến phòng trọ của anh Trần Đại N dùng 01 (một) cờ lê đã chuẩn bị sẵn phá khóa cửa vào phòng lấy trộm 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell, màu trắng để trên bàn học.

Vụ thứ 3: Sau khi lấy trộm chiếc máy tính của anh N, B thấy phòng trọ kế bên của chị Đặng Thị Thương T đang khóa và không có người nên dùng 01 (một) cờ lê khác phá khóa cửa vào phòng lấy trộm 500 USD (Năm trăm Đô la Mỹ) của chị T để trong tủ áo quần rồi tẩu thoát.

Sau khi lấy trộm tài sản, B điều khiển xe đi đến Phòng giao dịch Ngân hàng thương mại cổ phần S ở đường THD, thành phố H đổi 400 USD được 9.160.000 đồng (Chín triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng). Sau đó B điều khiển xe vào thành phố Đà Nẵng, trên đường đi B ném 02 (hai) cờ lê xuống đèo Hải Vân, do không xác định được vị trí nên không thu hồi được. Vào đến Đà Nẵng, B đến 01 (một) tiệm vàng không nhớ rõ tên trên đường AC đổi 100 USD được 2.300.000 đồng (Hai triệu ba trăm nghìn đồng). Đến 20 giờ ngày 08/01/2021, B mang chiếc máy tính xách tay hiệu Dell màu trắng đến bán cho anh Hoàng Nhật L với giá 4.300.000 đồng (Bốn triệu ba trăm nghìn đồng), số tiền bán được B đã tiêu xài cá nhân hết.

* Vật chứng tạm giữ:

- 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell 3558, màu đen, số S/N: 1GBSC82, cùng cáp sạc, máy đã qua sử dụng;

- 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Apple, loại máy: Mac Book Pro 2010 màu trắng, số serial: C02GKACJDW47, máy đã qua sử dụng;

- 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell, màu trắng, số Serial: JC2HG72, máy đã qua sử dụng;

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số đăng ký: 92H1-095.04, màu sơn: trắng-đỏ-đen, số khung: RLHJF2702BY072083, số máy: JF27E0796766 xe đã qua sử dụng;

- 01 (một) áo mưa màu xanh, có chữ MB màu trắng ở mặt sau;

- 01 (một) mũ B hiểm bằng nhựa, màu xanh-trắng-xám.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 64/KL-HĐĐGTS ngày 01/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H xác định tại thời điểm bị chiếm đoạt giá trị các tài sản như sau:

- 01 (một) máy tính xách tay hiệu Dell màu đen, giá trị: 5.000.000 đồng;

- 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Apple, loại máy: Mac Book Pro 2010 màu trắng, giá trị: 1.200.000 đồng;

- 01 (một) ổ cứng rời nhãn hiệu WD, màu đen, dung lượng: 500 GB giá trị: 300.000 đồng;

- 01 (một) máy tính xách tay hiệu Dell, màu trắng, giá trị: 4.500.000 đồng.

* Tại Công văn số 34/TTH-THNSKSNB ngày 22/01/2021 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh Thừa Thiên Huế về việc “cung cấp tỷ giá ngoại tệ”. Cung cấp tỷ giá T tâm của Đồng Việt Nam (VNĐ) với Đô la Mỹ (USD) áp dụng cho ngày 06/01/2021 như sau: 01 USD = 23.123VNĐ.

Như vậy: 500 USD = 11.561.500 VNĐ.

* Về xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã xử lý vật chứng:

- Trả lại cho anh Võ Quang T 01 (một) máy tính xách tay hiệu Dell màu đen;

01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Apple, loại máy: Mac Book Pro 2010 màu trắng;

- Trả lại cho anh Trần Đại N 01 (một) máy tính xách tay hiệu Dell, màu trắng. Anh T và anh N nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

- Trả lại cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade, biển số: 92H1-095.04 và trả lại 01 (một) áo mưa màu xanh và 01 (một) mũ B hiểm bằng nhựa cho Nguyễn Quốc B.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Đặng Thị Thương T, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị Bích S, anh Nguyễn Văn V và anh Hoàng Nhật L yêu cầu Nguyễn Quốc B bồi thường lần lượt số tiền là: 11.561.500 đồng, 1.000.000 đồng, 4.000.000 đồng và 4.300.000 đồng nhưng bị cáo B chưa bồi thường.

Tại cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 225/CT-VKS-HS ngày 27/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế truy tố Nguyễn Quốc B về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc B phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị buộc bị cáo bồi thường cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn V 4.000.000đồng; bồi thường cho chị Nguyễn Thị Bích S 1.000.000đồng; bồi thường cho anh Hoàng Nhật L 4.300.000đồng; bồi thường cho chị Đặng Thị Thương T 11.561.500đồng.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H; bị cáo nói lời nói sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Quốc B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo phù với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để khẳng định: Trong các ngày 04/01/2021 và 06/01/2021, tại địa bàn thành phố H, Nguyễn Quốc B đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản gồm:

Ngày 04/01/2021, tại Cư xá sinh viên DV II, địa chỉ: H16 đường TTK, phường TA, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Nguyễn Quốc B trộm cắp của anh Võ Quang T 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell, màu đen; 01 (một) máy tính xách tay Mac Book Pro, màu trắng và 01 (một) ổ cứng rời nhãn hiệu WD, có tổng trị giá: 6.500.000 đồng.

Ngày 06/01/2021, tại nhà trọ số 03 đường Đường QT, phường TA, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Nguyễn Quốc B trộm cắp của anh Trần Đại N 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell, màu trắng trị giá: 4.500.000 đồng và trộm của chị Đặng Thị Thương T số tiền 500 USD, trị giá 11.561.500 đồng.

Tổng giá trị mà B chiếm đoạt là: 22.561.500 đồng (Hai mươi hai triệu, năm trăm sáu mươi mốt nghìn, năm trăm đồng).

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã tái phạm về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do lỗi cố ý nên đã phạm vào điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 225/CT-VKS-HS ngày 27/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn chuẩn bị công cụ, phương tiện liên tiếp nạy cửa người khác thực hiện ba vụ trộm cắp tài sản. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường và bất chấp pháp luật, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương.

[4]. Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu, đã có hai tiền án chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo không tu dưỡng rèn luyện, lao động để kiếm tiền nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình mà lười lao động, muốn kiếm tiền trên thành quả lao động của người khác. Do vậy cần phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[5]. Về tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội hai lần trở lên nên phải chịu tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6].Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại tài sản cho những người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Không ai có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7].Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại đã nhận lại tài sản, riêng ổ đĩa cứng rời nhãn hiệu WD bị cáo trộm của anh Võ Quang T bị cáo đã bán cho anh Dương Văn T, anh Văn T đã bán lại cho người khác không thu hồi được, tại cơ quan điều tra anh Quang T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, không có ai yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn V yêu cầu bị cáo bồi thường 4.000.000đồng; chị Nguyễn Thị Bích S yêu cầu bị cáo bồi thường 1.000.000đồng; anh Hoàng Nhật L yêu cầu bị cáo bồi thường 4.300.000đồng; chị Đặng Thị Thương T yêu cầu bị cáo bồi thường 11.561.500đồng. Xét những người có quyền lợi và nghĩa vụ trên, khi mua tài sản không biết tài sản do bị cáo phạm tội mà có, cơ quan điều tra đã nhắc nhở rút kinh nghiệm. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai hiện vẫn chưa bồi thường cho họ, nên cần buộc bị cáo phải bồi thường.

[8].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc B 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 14/01/2021.

2.Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điu 585, Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự; Buộc bị cáo Nguyễn Quốc B bồi thường cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gồm: Bồi thường cho anh Nguyễn Văn V 4.000.000đồng; bồi thường cho chị Nguyễn Thị Bích S 1.000.000đồng; bồi thường cho anh Hoàng Nhật L 4.300.000đồng; bồi thường cho chị Đặng Thị Thương T 11.561.500 đồng.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự, tương ứng với thời gian chậm trả.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7a, 7a Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3.Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo Nguyễn Quốc B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.043.075đồng (làm tròn 1.043.000đồng) (Một triệu không trăm bốn mươi ba nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2021/HSST ngày 28/07/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:154/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về