Bản án 154/2020/HSST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 154/2020/HSST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 09 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 173/2020/HSST ngày 21/8/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Xuân Đ, sinh năm 1998; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm 18, xã T, huyện X, tỉnh N; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Công giáo; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Phạm Văn K, con bà Nguyễn Thị L; Tiền án tiền sự: Không (Danh chỉ bản số 310 lập ngày 01/6/2020, tại Công an huyện T); Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2020, tạm giam từ ngày 07/06/2020, hiện đang tạm giam- có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20h 25 ngày 28 tháng 05 năm 2020, tại Khu vực C, xã T, huyện T, thành phố H, Công an xã T, công an T bắt quả tang Phạm Xuân Đ tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của Đ 01 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng qua giám định là Heroin có khối lượng 0,176g, cùng 01 xe ô tô Wave Alpha BKS 17K-4520, số máy 5187686, số khung 567797.

Phạm Xuân Đ khai: Số ma túy này là do Đ mượn xe ô tô Wave Alpha BKS 17K-4520, số máy 5187686, số khung 567797 của anh Q đi đến khu vực Cầu T, xã T, huyện T, thành phố H mua của một người đàn ông không quen biết với giá 200.000đ để về sử dụng. Mua được ma túy, Đ cất gói ma túy vào túi áo ngực đang mặc tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện và bắt giữ Đối với chiếc xe ô tô Wave Alpha BKS 17K-4520, số máy 5187686, số khung 567797 cơ quan điều tra thu giữ là của anh Phùng Huy Q, anh Q cho Đ mượn xe, không biết Đ sử dụng vào việc mua ma túy, cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh Q.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Đ, Đ khai không biết tên tuổi và địa chỉ của người này, Cơ quan điều tra đã tiến hành ra soát và dẫn giải Đ đến địa điểm mua ma túy nhưng không phát hiện được người bán ma túy cho Đ, nên cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xác minh làm rõ và xử lý.

Tại bản áo trạng số 153/CT-VKSTT ngày 20/08/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Phạm Xuân Đ về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận ngày 28/05/2020 tàng trữ trái phép 0,176g Heroin. Bị cáo ăn năn hối cải đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo từ 14 - 20 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tịch thu 0,140g Heroin còn lại sau giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, tang vật thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án: Đủ cơ sở kết luận: Ngày 28/5/2020, tại Khu vực Cầu B, xã T, huyện T, thành phố H, Phạm Xuân Đ đã có hành vi cất giữ trái phép 0,176g Heroin – một chất ma túy độc hại. Với kết quả điều tra chỉ đủ căn cứ chứng minh bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng. Đối chiếu quy định của pháp luật, bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viễn dẫn là có căn cứ pháp lý.

Ma túy là hiểm họa của xã hội bởi ma túy không chỉ là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh chết người- bệnh AIDS, làm thiệt hại kinh tế, gây suy thoái đạo đức và lối sồng mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm nguy hiểm. Đấu tranh phòng chống ma túy là trách nhiệm của mọi người. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Do tính chất nguy hiểm của hành vi, cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự.

Để trừng trị đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo làm bài học răn đe người khác, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Khi lượng hình có xem xét bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Xem xét thấy bị cáo không có việc làm, bản thân phải chấp hành hình phạt tù nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 0,176g Heroin để thực hiện việc giám định bằng phương pháp phản ứng hóa học, sắc ký lớp mỏng, sắc ký khí (sau khi giám định không thu hồi được số ma túy đã trích), hiện chỉ còn 0,140g Herion là chất độc hại cần tịch thu tiêu hủy.

Xe ô tô Wave Alpha BKS 17K-4520, số máy 5187686, số khung 567797 cơ quan điều tra thu giữ là của anh Phùng Huy Q, anh Q cho Đ mượn xe, không biết Đ sử dụng vào việc mua ma túy, cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh Q là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

Bị cáo phải chịu án phí HSST, được kháng cáo bản án theo Điều 136,331,333 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyến bố: Bị cáo Phạm Xuân Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Xuân Đ 13 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2020 * Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 BLTTHS 2015. Tịch thu tiêu hủy 0,140g Heroin còn lại sau giám định; (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/9/2020) * Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thư, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

* Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331,333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Bị cáo được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2020/HSST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:154/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về