TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI LAI, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 154/2020/DS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 90/2020/TLST-DS ngày 04 tháng 6 năm 2020 về “tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 266/2020/QĐXXST-DS ngày 20 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S.
Địa chỉ: đường N, Phường 8, Quận 3, Thành phố H.
Đại diện hợp pháp: Ông Hồ Thanh L (Có mặt).
Chức vụ: Nhân viên Ngân hàng S.
Địa chỉ: đường V, phường T, quận N, thành phố C (Văn bản ủy quyền ngày 31/7/2020).
Bị đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1985 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Đ, xã Đ, huyện T, thành phố C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, đại diện hợp pháp của Ngân hàng TMCP S (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) trình bày: Ngày 08/8/2018, Ngân hàng cùng với bà T ký Giấy đề nghị vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số LD 1822000319 cho vay tiêu dùng số tiền 30.000.000 đồng, thời hạn 12 tháng, lãi suất 1,7%/tháng. Quá trình thực hiện hợp đồng bà T đã trả được 07 kỳ với tiền gốc 17.500.000 đồng, tiền lãi 3.570.000 đồng, đến kỳ thứ 08 ngày 08/4/2019 không đóng cho đến nay mặc dù Ngân hàng nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà T vẫn không trả nợ và khoản nợ của bà đã được chuyển sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 30/3/2020 bà còn nợ gốc 9.000.000 đồng, nợ lãi 5.024.919 đồng, nợ lãi quá hạn 207.647 đồng. Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà T phải trả số tiền trên, tiền lãi tiếp tục được tính kể từ ngày 31/3/2020 đến khi trả hết nợ.
Bị đơn bà T vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù Tòa án đã thực hiện thủ tục cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho ông theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Diễn biến tại phiên tòa, theo Bản tự khai ngày 29/9/2020 đại diện Ngân hàng cho rằng trong thời gian quá hạn từ ngày 31/5/2019 đến ngày 19/12/2019 bà trả thêm 3.500.000 đồng. Đồng thời cập nhật, điều chỉnh yêu cầu buộc bà T phải trả tổng số tiền nợ tính đến ngày 29/9/2020 là 15.732.961 đồng (gồm nợ gốc 9.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 6.398.154 đồng, nợ lãi quá hạn 334.807 đồng). Bà phải tiếp tục trả lãi kể từ ngày 30/9/2020 cho đến khi trả hết nợ theo thỏa thuận đã ký tại Điều III của hợp đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Ngân hàng và bà T phát sinh quan hệ vay tiền, sau khi vay bà vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Ngân hàng khởi kiện, Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng quy định tại Khoản 5 Điều 26, Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a Khoản 3 Điều 98 của Luật Các tổ chức tín dụng.
[2] Bà T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông.
[3] Hợp đồng tín dụng được bà T sử dụng vào mục đích vay tiêu dùng cá nhân, quá trình vay bà có thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng đến kỳ trả nợ thứ 08 bà vi phạm đến nay. Việc vi phạm đã được Ngân hàng thông báo, nhắc nhở nhưng vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Do đó, có đủ căn cứ xác định bà T vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tín dụng đã ký theo quy định tại Khoản 2 Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng nên bà phải có nghĩa vụ trả toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 29/9/2020 là 15.732.961 đồng (gồm nợ gốc 9.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn 6.398.154 đồng, nợ lãi quá hạn 334.807 đồng). Bà phải tiếp tục trả lãi kể từ ngày 30/9/2020 cho đến khi trả hết nợ theo thỏa thuận đã ký tại Điều III của hợp đồng.
[4] Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng có căn cứ chấp nhận, bà T phải chịu 787.000 đồng (đã làm tròn) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngân hàng được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 5 Điều 26; Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
Khoản 2 Điều 95, điểm a Khoản 3 Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S.
Buộc bà Phạm Thị T phải trả cho Ngân hàng TMCP S số tiền 15.732.961 đồng. Tiền lãi tiếp tục được tính theo thỏa thuận tại Điều III của Giấy đề nghị vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ số LD 1822000319 ngày 08/8/2018 kể từ ngày 30/9/2020 cho đến khi trả hết nợ.
Bà Phạm Thị T phải chịu 787.000 đồng (đã làm tròn) án phí dân sự sơ thẩm, Ngân hàng TMCP S được nhận lại 3.698.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2019/015650 ngày 02/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Lai.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 07 (bảy ngày) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định được giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 154/2020/DS-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 154/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Lai - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về