Bản án 154/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội mua bán người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 154/2019/HS-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI

Ngày 31/10/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 149/2019/HS-ST ngày 09 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 218/2019/QĐXX ngày 10 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đối với bị cáo:

Vi Thị H; Sinh ngày 28/9/1985; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: bản K, xã Th, huyện C, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa: 02/12; Con ông: Vi Văn Th, sinh 1961 và bà Lê Thị Th, sinh 1962; Anh chị em ruột: có 07 người, (bị cáo là con thứ 2); Chồng: Vi Đình B, sinh 1987 (Đã ly hôn); Con: có 03 con, (lớn sinh 2006, nhỏ sinh 2010 và 1 con với chồng ở Trung Quốc), nhưng không đăng ký kết hôn nên khai sinh lấy họ theo mẹ là Vi Sung L, sinh ngày 25/11/2017. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Vi Thị H bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2019 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phan Thị S, văn phòng luật sư Dung sự và cộng sự. Có mặt.

- Người bị hại:

1. Chị Lô Thị H, sinh năm 1983

Trú tại: Bản Q, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

2. Chị Lô Thị Th; sinh năm 1989

Trú tại: Bản Q, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại Lô Thị H, Lô Thị Th: Ông Tạ Ngọc V - Luật sư, Văn phòng Luật sư T và Cộng sự, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng đầu tháng 5 năm 2019, Lô Thị H và Lô Thị Th cùng trú tại: bản Q, xã T, huyện T, tỉnh Nghệ An, muốn đi tìm việc làm, quá trình đi tìm việc biết được Vi Thị H sinh năm 1985 trú tại: bản K, xã Th, huyện C, tỉnh Nghệ An thường hay đưa người đi Trung Quốc làm việc nên đã gọi điện cho Vi Thị H để hỏi Vi Thị H đi sang Trung Quốc tìm việc làm, Vi Thị H trả lời sang Trung Quốc thì chỉ có lấy chồng, nếu đồng ý Vi Thị H sẽ đưa đi, Vi Thị H hứa trả cho Lô Thị H 80 triệu, trả cho Lô Thị Th 100 triệu, do điều kiện kinh tế khó khăn nên Lô Thị H và Lô Thị Th đồng ý

Sau đó, Vi Thị H điện thoại cho Lê Thị M (quen biết với Vi Thị H ở Trung Quốc chưa xác định được địa chỉ), hiện lấy chồng làm ăn ở Trung Quốc nói đã tìm được 2 người để đưa sang Trung Quốc bán cho người Trung Quốc lấy làm vợ. Lê Thị M thỏa thuận, cứ đưa được 01 người ra Móng Cái, Quảng Ninh, sẽ trả tiền công cho Vi Thị H mỗi người 5.000 nhân dân tệ (Tương đương 17 triệu tiền Việt Nam) và trả cho gia đình của 1 người đi Trung Quốc 3 vạn nhân dân tệ (102 triệu đồng), Vi Thị H đồng ý.

Ngày 21/5/2019 Vi Thị H hẹn gặp Lô Thị H và Lô Thị Th tại một quán phở ở thị trấn huyện C để bàn bạc thỏa thuận cho cụ thể, khi gặp nhau Vi Thị H hứa trả cho Lô Thị H 90 triệu, trả cho Lô Thị Th 100 triệu, trước khi đi sẽ cho ứng trước một người 2 triệu, và hẹn ngày 04/6/2019 (02/5/2019 AL) sẽ đi, Lô Thị H, Lô Thị Th đồng ý. Khoảng mấy ngày sau Vi Thị H lại gọi điện nói với Lô Thị H và Lô Thị Th, chiều ngày 29/5/2019 DL (Tức ngày 25/4/2019AL) Lô Thị H và Lô Thị Th phải xuống nhà Vi Thị H ngủ một đêm sang ngày hôm sau tức ngày 30/5/2019 DL (ngày 26/4/2019AL) sẽ đi.

Vào khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 29/5/2019, Lô Thị H và Lô Thị Th xuống ngã 3 Cây Chanh thuộc xã Đ, huyện A, Nghệ An để gặp Vi Thị H để đi Trung Quốc. Khi gặp nhau Vi Thị H đưa cho Lô Thị H và Lô Thị Th ứng trước một người 2 triệu để gửi về cho gia đình và nói sẽ đón xe cho Lô Thị H và Lô Thị Th đi ra Móng Cái, Quảng Ninh chiều 29/5/2019 luôn, ra đến nơi sẽ có người đón đưa đi Trung Quốc, nhưng Lô Thị H và Lô Thị Th nói Vi Thị H đưa đi thì mới đi. Sau đó Vi Thị H đón xe Lâm Oanh chạy tuyến T đi Móng Cái, Quảng Ninh để đưa Lô Thị H, Lô Thị Th sang Trung Quốc bán, khi xe chạy đến địa phận thị trấn A, H A thì bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An, phối hợp với đội CSGT 1-7 thuộc Phòng CSGT Công an tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra, Vi Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Về vật chứng: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu hồng, đã qua sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Lô Thị H và Lô Thị Th không yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần và sức khỏe.

Tại bản cáo trạng số 180/ VKS-P2, ngày 07/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An quyết định truy tố bị cáo Vi Thị H về tội “Mua bán người” theo điểm d, đ khoản 2 điều 150 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng áp điểm d, đ khoản 2 Điều 150, điểm s, h khoản 1,2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vi Thị H mức án từ 05 năm đến 06 năm tù. Về án phí và vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Vi Thị H không tranh luận về tội danh đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số nên có hạn chế về pháp luật, bị hại cũng có lỗi, bị cáo phạm tội chưa đạt, chưa gây hậu quả lớn để giảm mức hình phạt thấp hơn so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho hai bị hại nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội chưa đạt để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và các bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Vi Thị H thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai những người bị hại, người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng đầu tháng 5/2019, do hám lợi, khi được Lô Thị H và Lô Thị Th đồng ý đi sang Trung Quốc lấy chồng với điều kiện H trả cho Hợi 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu) đồng, Th 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng. Vi Thị H gọi điện thoại trao đổi, thỏa thuận với Lê Thị M hiện lấy chồng và đang ở Trung Quốc, là nếu H đưa 02 người sang Trung Quốc, thì M trả tiền công cho H 34.000.0000 (Ba mươi tư triệu) đồng và trả cho gia đình 02 người đi Trung Quốc mỗi 102.000.000 (Một trăm linh hai triệu) đồng. Sau khi thống nhất, khoảng 13 giờ 30 phút ngày 29/5/2019, Vi Thị H đưa cho chị H và Chị Th mỗi người ứng trước 2.000.000 (Hai hiệu) đồng để gửi về cho gia đình. Sau đó, H bắt xe ô tô khách Lâm Oanh chạy tuyến T đi Móng Cái, Quảng Ninh đưa Lô Thị H, Lô Thị Th sang Trung Quốc bán, khi xe chạy đến địa phận thị trấn A, huyện A thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An, phối hợp với đội CSGT 1-7 thuộc Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang. Như vậy, với hành vi trên của bị cáo Vi Thị H đã phạm vào tội “Mua bán người” với tình tiết định khung là “Đưa nạn nhân ra nước ngoài” và “Đối với từ 02 người đến 05 người” quy định tại điểm d, đ khoản 2 điều 150 Bộ luật Hình sự

[3] Xét hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm của những người bị hại, gây tác hại lớn cho xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến truyền thống, phong tục tập quán Việt Nam, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo Vi Thị H chỉ vì lợi ích cá nhân mà coi thường pháp luật, lợi dụng sự nhẹ dạ và hoàn cảnh khó khăn của những người phụ nữ để đưa họ sang Trung Quốc bán nhằm thu lợi bất chính nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức có phần hạn chế, hiện đang nuôi con nhỏ và chính người bị hại cũng có lỗi khi tự mình đồng ý để được bán sang Trung Quốc với mục đích mưu sinh, đây cũng là bài học cho những phụ nữ đang có nhu cầu tìm việc làm. Là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s,h khoản 1, 2 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 mà bị cáo được hưởng. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản gì, hiện đang nuôi con nhỏ. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Trong vụ án này, Đối với Lê Thị M theo lời khai của Vi Thị H thì đã có hành vi trao đổi để đưa Lô Thị H và Lô Thị Th sang bán cho một người đàn ông Trung Quốc. Quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch địa chỉ, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An tiếp tục xác minh làm rõ, sẽ xử lý sau.

[7] Về vật chứng: Tịch thu hóa giá 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng là phương tiện phạm tội.

[8] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vi Thị H phạm tội “Mua bán người”

Căn cứ vào điểm d, đ Khoản 2, Điều 150; điểm s, h khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Vi Thị H 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2019. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu hóa giá sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng loại cảm ứng.

Đặc điểm, tình trạng các vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10 tháng 10 năm 2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Vi Thi H phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội mua bán người

Số hiệu:154/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về