Bản án 153/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 153/2020/HS-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23/9/2020, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số:133/2020/TLST-HS ngày 01/9/2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2020/QĐXXST-HS ngày 09/9/2020 đối với bị cáo:

Hán Đức M(tên gọi khác: không), sinh năm 1987.

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Khu 6, xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hán Văn Ph và bà Nguyễn Thị Th; có vợ là Lê Thị Ngọc H, sinh năm 1990, vợ chồng có 02 con chung ( con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2019); tiền án: không.

Tiền sự: 01 tiền sự: Năm 2020 bị Công an huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 350.000đ về hành vi đánh bạc, chấp hành xong ngày 20/7/2020.

* Nhân thân: Ngày 08/1/2006 và 09/1/2006 có hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Công nhiên chiếm đoạt tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xử phạt 24 tháng tù tại Bản án số 24/HSST ngày 29/03/2006 (chấp hành xong Bản án ngày 17/09/2015).

+ Ngày 19/12/2008 có hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xử phạt 12 tháng tù tại Bản án số 15/HSST ngày 18/03/2009 (chấp hành xong Bản án ngày 30/07/2009).

+ Ngày 17/02/2011 có hành vi “Hủy hoại tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu xử phạt 2 năm tù tại Bản án số 124/HSST ngày 04/11/2011 (chấp hành Bản án ngày 03/11/2012).

+ Ngày 24/06/2013 có hành vi “Gây rối trật tự công cộng” bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xử phạt 42 tháng tù tại Bản án số 23/HSST ngày 13/03/2014 (chấp hành xong Bản án ngày 24/12/2016).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người chứng kiến:

1. anh Lê M H, sinh năm: 1983; Trú tại: M Tân, M Thông, Việt Trì, Phú Thọ. Vắng mặt

2. anh Lê Thanh T, sinh năm: 1971; Trú tại: xóm Bíp, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 04/06/2020 tại tại khu vực xóm Đoàn Kết, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Công an xã Thuận Thành phát hiện Hán Đức Mvà Lê M H, sinh năm 1983, Hộ khẩu thường trú: M Tân, M Thông, Việt Trì, Phú Thọ có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi thấy Tổ công tác thì Hán Đức Mbỏ chạy. Tổ công tác tiến hành truy đuổi thì giữ được M và đưa trở lại vị trí M vừa bỏ chạy. Tiến hành kiểm tra tại vị trí M đứng trước khi bỏ chạy, Tổ công tác phát hiện có 02 gói giấy màu trắng xanh hồng, bên trong đều có chứa chất rắn màu trắng đục và 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu hồng. Theo M khai nhận toàn bộ số chất rắn màu trắng đục trên là ma túy, loại Heroine và số chất bột màu hồng là hồng phiến của M, mua về để sử dụng cho bản thân. Tiến hành kiểm tra đối với Lê M H không phát hiện và thu giữ gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với M, niêm phong số vật chứng thu giữ ( ký hiệu A) đưa về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên giải quyết theo thẩm quyền.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên phối hợp với Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân khối lượng số chất bột màu trắng đục thu giữ của Hán Đức Mđược 0,164 gam ( tiếp tục niêm phong ký hiệu M) và số chất bột màu hồng thu giữ của Hán Đức Mđược 0,026 gam ( tiếp tục niêm phong ký hiệu H).

Tại bản kết luận giám định số 749/KL- KTHS ngày 12/06/2020 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất rắng màu trắng đục trong phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,164 gam.

Tại bản kết luận giám định số 3630/C09- TT2 của Viện khoa học hình sự,

Bộ công an, kết luận: Mẫu chất bột màu hồng trong phong bì niêm phong ký hiệu H gửi giám định là chất ma túy, loại Mathamphetamine, có khối lượng là: 0,026 gam Quá trình điều tra Hán Đức Mkhai nhận: Do bản thân nghiện chất ma túy, nên khoảng 12 giờ 00 phút ngày 04/6/2020, M nhờ Lê M H là bạn bè xã hội làm nghề chở xe ôm chở từ khu vực Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ đến khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên để mua ma túy sử dụng (M không nói cho H biết việc M đi mua ma túy). Khi đến xóm Kim Tỉnh, M xuống xe và đi bộ đến trước cửa một ngôi nhà có cửa bằng sắt đóng kín phía bên pH hành lang đường Quốc lộ 3 cũ, hướng Hà Nội đi Thái Nguyên. Sau đó M gõ cửa và đưa số tiền 300.000đ qua khe cửa sát nền bê tông vào bên trong ngôi nhà thì có người cầm tiền rồi người đó đưa qua khe cửa nhỏ ra ngoài cho M 02 gói ma túy, loại heroine và 01 túi nilon bên trong có chứa hồng phiến (M không xác định được chủ ngôi nhà và người bán ma túy cho M là ai). Mua được ma túy M, cầm ở tay trái rồi bảo H chở về. Khi về đến đoạn đường thuộc xóm Đoàn Kết, xã Thuận Thành, M bảo H chở vào khu vực đường dân sinh đi vào khu nghĩa trang thuộc xóm Đoàn Kết. Đến nơi M bảo H đứng chờ ở đó còn M tìm chỗ để sử dụng ma túy. Khi M vừa bỏ số ma túy xuống đất và chuẩn bị sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ.

Đối với Lê M H khai nhận chỉ được M thuê chở xe ôm từ Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ đến xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên với giá 200.000đ. Việc M đi mua ma túy H không biết và không tham gia vào việc đó cùng với M. H được chứng kiến khi M bỏ số ma túy xuống đất để sử dụng thì bị lượng Công an xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên phát hiện, M bỏ chạy và Công an xã Thuận Thành đã yêu cầu M quay lại tại vị trí M vừa định sử dụng ma túy, thu giữ số ma túy của M và niêm phong số vật chứng trên.

Tại bản cáo trạng số 147/CT-VKSPY ngày 01/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Hán Đức Mvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với vật chứng đã bị thu giữ.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hán Đức M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Hán Đức Mmức án từ 24-30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có công ăn việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong ký hiệu M, bên trong có 0,151 gam chất ma túy, loại Heroine hoàn lại sau giám định; 01 phong bì niêm phong màu trắng ký hiệu N, bên trong đựng vỏ bao mẫu niêm phong.

Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Buộc bị cáo Hán Đức MpH chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận nội dung truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai. Lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Những người chứng kiến đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, kiểm sát viên, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt những người chứng kiến. Xét việc những người chứng kiến vắng mặt nhưng trong hồ sơ đã có lời khai của họ nên sự vắng mặt họ không gây trở ngại cho quá trình xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của bị cáo là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 14 giờ 30 phút ngày 04/06/2020 tại tại khu vực xóm Đoàn Kết, xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên, Hán Đức Mđã có hành vi tàng trữ trái phép hai chất ma túy gồm: loại Heroine, có khối lượng là: 0,164 gam; loại Mathamphetamine, có khối lượng là:

0,026 gam, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 147/CT-VKSPY ngày 01/9/2020 của Viện kiểm sát nhân nhân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nội dung Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) ... Heroine…, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam...

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an ninh tại địa phương. Do đó việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét các yếu tố về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về nhân thân: Bị cáo được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 12/12 thì nghỉ học làm nghề lao động tự do. Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị đưa ra xét xử cụ thể: Năm 2006 có hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Công nhiên chiếm đoạt tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xử phạt 24 tháng tù tại Bản án số 24/HSST ngày 29/03/2006 (chấp hành xong Bản án ngày 17/09/2015); năm 2008 có hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xử phạt 12 tháng tù tại Bản án số 15/HSST ngày 18/03/2009 (chấp hành xong Bản án ngày 30/07/2009); năm 2011 có hành vi “Hủy hoại tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu xử phạt 2 năm tù tại Bản án số 124/HSST ngày 04/11/2011 (chấp hành Bản án ngày 03/11/2012); Năm 2013 có hành vi “Gây rối trật tự công cộng” bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xử phạt 42 tháng tù tại Bản án số 23/HSST ngày 13/03/2014 (chấp hành xong Bản án ngày 24/12/2016). Căn cứ Điều 70 Bộ luật hình sự bị cáo thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích. Ngoài ra năm 2020 bị cáo còn bị Công an huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 350.000đ về hành vi đánh bạc, bị cáo đã nhờ người nộp thay ngày 20/7/2020. Căn cứ khoản 1 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì bị cáo vẫn còn tiền sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do vậy bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không pH chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự ( do các bản án của bị cáo đã được xóa án tích).

[5] Nhận định của Hội đồng xét xử khi lượng hình thấy: Bị cáo là người nghiện ma túy, có nhân thân rất xấu, đã 04 lần bị đưa ra xét xử và 01 tiền sự về hành vi đánh bạc, nhẽ ra với những lần đi cải tạo bị cáo pH lấy đó làm bài học, sửa chữa lỗi lầm, làm ăn lương thiện nay tiếp tục lao vào con đường phạm tội, thể hiện ý thức chấp hành pháp luật kém của bị cáo.

Để đảm bảo an ninh trật tự và đấu tranh phòng chống tội phạm, cần có bản án nghiêm khắc, buộc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy là phù hợp, được chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, mục đích mua ma túy về sử dụng không có mục đích mua, bán nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[7] Về vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo và các bao bì kèm theo là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số ma túy M khai mua tại một ngôi nhà có cửa xếp bằng sắt đóng kín, nằm ở bên pH đường Quốc lộ 3 cũ theo hướng Thái Nguyên - Hà Nội (M không biết nhà của ai, khi mua M không nhìn thấy người bán), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra xử lý sau. Đối với Lê M H là người chở M đi mua ma túy. Tuy nhiên H không không biết việc M đi mua ma túy cũng như tàng trữ ma túy nên không xem xét xử lý là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hán Đức Mphạm tội :Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Hình phạt chính:

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Hán Đức M30 (Ba mươi ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2020.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Hán Đức M45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn trả 0,151 gam mẫu M còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu M ; 01 phong bì niêm phong ký hiệu N ghi vỏ bao mẫu lưu kho.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phổ Yên và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 08/9/2020 )

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hán Đức MpH chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ nộp Ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Bị cáo Hán Đức Mcó quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 153/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:153/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về