Bản án 153/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, TP HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 153/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 156/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Công T; sinh năm: 1989 tại Cần Thơ; nơi đăng ký thường trú: phường A, quận B, Tp. Cần Thơ; nơi cư trú: xã C, huyện D, tỉnh Long An; nghề nghiệp: thợ sơn; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Công i, sinh năm 1950 và bà: Trần Thị P, sinh năm 1960; có vợ: Võ Thị Thu U, sinh năm 1991 và 02 con: lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: 08/11/2019. Có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Trọng T1, sinh năm 1973, nơi cư trú: xã E, huyện F, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đỗ Đăng T2, sinh năm 1963, nơi cư trú: Phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ năm 2010, Nguyễn Công T làm nghề thợ sơn PU các loại cửa bằng gỗ nên có sự hiểu biết về ván gỗ. Khoảng 17 giờ ngày 04/5/2019, T dùng điện thoại vào trang mạng “Google” tìm kiếm cửa hàng bán ván gỗ, mục đích để giả vờ mua ván gỗ với giá cao, rồi sẽ lợi dụng sơ hở chiếm đoạt số ván gỗ này mang đi bán với giá thấp để lấy tiền tiêu xài. T tìm thấy cửa hàng Tuấn T, địa chỉ: 80D Phan Văn H, ấp 5, xã E, huyện F có bán ván gỗ. T dùng số điện thoại 0797754361 liên hệ với anh Nguyễn Trọng T1 (chủ cửa hàng Tuấn T) đặt mua 120 tấm ván cao su loại 18ly AC khổ 1m2x2m4, giá 610.000 đồng/tấm. Đồng thời T cũng tìm được và liên hệ với anh Đỗ Đăng T2 – chủ cửa hàng số 09 Phạm Văn B, Phường I, quận K thỏa thuận bán ván cao su với giá 240.000 đồng/tấm.

Anh T1 cho biết xe tải chỉ chở được 115 tấm, T đồng ý và hẹn anh T1 giao hàng tại số 09 Phạm Văn B, Phường I, quận K. Đến 20 giờ 20 phút cùng ngày, anh T1 sử dụng xe tải giao 115 tấm ván cao su đến điểm hẹn rồi gọi điện thoại nói T thanh toán tiền hàng. T giả bộ yêu cầu anh T1 đến đường Nguyễn Văn Q để nhận tiền hàng. Khi anh T1 chạy xe đi thì Thới đi đến gặp anh T2 để lấy tiền. Do hàng không đạt yêu cầu nên anh T2 trả cho T 24.000.000 đồng. T nhận tiền rồi chạy xe về nhà tại huyện C, tỉnh Long An và tắt máy, tháo sim điện thoại ra để anh T1 không liên lạc được. Đến 22/5/2019, T tiếp tục đặt mua ván gỗ và hẹn gặp tại quận K nhưng chưa giao nhận ván gỗ và nhận tiền thì bị anh T1 bắt giữ, giao Công an Phường 15, quận Tân Bình xử lý.

Làm việc với anh Đỗ Đăng T2, anh T2 trình bày không biết số ván gỗ mua của T là do T chiếm đoạt của của T1 có được. Anh T2 đã tự nguyện giao nộp lại cho cơ quan công an.

Đối với số tiền 24.000.000 đồng anh T2 bỏ ra mua 115 tấm gỗ ép cao su, T đã tiêu xài cá nhân hết. Gia đình T đã tự nguyện bồi thường cho anh T2, anh T2 không có yêu cầu gì thêm.

Quá trình điều tra, T còn khai nhận cũng bằng thủ đoạn tương tự, Thới đã chiếm đoạt được số tiền 25.000.000 đồng tại địa bàn xã E, huyện F và chiếm đoạt 30.000.000 đồng tại cửa hàng số 464 Lê Trọng T, phường M, quận N. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng vụ án:

- 01 USB ghi lại hình ảnh phạm tội của Thới (lưu kèm hồ sơ vụ án).

- 115 tấm gỗ ép sao su (AC 18ly) khổ 1m2 x 2m4, trị giá 63.250.000 đồng, đã thu hồi trả lại cho bị hại anh Nguyễn Trọng T1. Anh T1 đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm.

- 01 xe gắn máy biển số 49M2-9474 thu giữ của T. T khai nhận của của một người đàn ông tên T, không rõ địa chỉ, họ tên. Qua xác minh, chủ sở hữu xe là anh Võ Việt T, sinh năm 1973, địa chỉ: K10, phường O, thành phố P, tỉnh Lâm Đồng. Anh T khai mua xe gắn máy trên tại cửa hàng xe gắn máy Thành T, Thành phố P vào năm 2008, sử dụng được khoảng 06 tháng thì mang đến cửa hàng Thành T đổi lấy xe gắn máy khác. Làm việc với chị Đinh Thị Minh N, sinh năm 1979 (kế toán của cửa hàng xe gắn máy Thành T) được biết cửa hàng Thành T đã giải thể vào năm 2011, sổ sách giấy tờ đã thất lạc hết.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime màu vàng, T dùng để liên lạc với anh T1 và anh T2.

Tại bản cáo trạng số 158/CT-VKS ngày 15 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Công T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Công T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Công T đã có hành vi giả vờ mua 115 tấm ván gỗ ép cao su trị giá 63.250.000 đồng của anh Nguyễn Trọng T1, khi anh T1 giao số ván gỗ đến cửa hàng của anh Đỗ Đăng T2 tại số 09 Phạm Văn B, Phường I, quận K theo yêu cầu của bị cáo thì bị cáo hẹn anh T1 đến nơi khác nhận tiền hàng, mục đích để sau khi anh T1 đi thì bị cáo mang số ván gỗ trên bán cho anh T2 lấy tiền tiêu xài hết, đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật và Nhà nước bảo hộ mà còn gây mất lòng tin giữa con người với nhau. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bị pháp luật ngăn cấm và trừng trị nhưng do tham lam, muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố tình phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người có quyền lợi liên quan, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Trọng T1 đã nhận lại tài sản, người có quyền lợi liên quan anh Đỗ Đăng T2 đã được bồi thường, không ai có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 USB ghi lại hình ảnh phạm tội của bị cáo là chứng cứ có thể lưu giữ vào hồ sơ vụ án nên cần lưu vào hồ sơ vụ án.

- 01 xe gắn máy biển số 49M2-9474 thu giữ của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy xe gắn máy trên có nguồn gốc chưa rõ ràng, cần giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu trong một thời gian nhất định, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime màu vàng thu giữ của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo dùng điện thoại trên vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135 và 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Công T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 08/11/2019. [3] Lưu hồ sơ vụ án 01 USB ghi lại hình ảnh phạm tội của bị cáo (01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký của Đỗ Đăng T2 và hình dấu Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình).

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime màu vàng đồng, số imei 1: 357625083625692, số imei 2: 357651083625698.

Giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu xe gắn máy biển số 49M2-9474, số khung: J3HY71000723, số máy I-B*70000723 trong thời gian 01 năm, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 187/PNK ngày 28/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình).

[5] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 153/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:153/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về