TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 153/2018/HSST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 167/2018/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 174/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Trần Trung H, sinh năm 1994 tại Thành phố Hồ Chí Minh;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố 3, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nơi sinh sống: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu L và bà Nguyễn Thị Mỹ D; bị cáo chưa có vợ con;
Tiền án: Ngày 30/6/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 184/2016/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/01/2017.
Tiền sự: Không;
Bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày từ 20/7/2018 đến nay;
Bị cáo có mặt tại phiên tòa;
2. Huỳnh Dương Trung T, sinh năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 408 Lô D, Phường 11, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi sinh sống: Như trên; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ họcvấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Trung C và bà Dương Ngọc H; bị cáo có vợ và 01 con sinh năm 2008; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;
Bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày từ 21/7/2018 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;Minh.
- Người tham gia tố tụng khác:
1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Phu N, sinh năm 1952 – vắng mặt.
Nơi cư trú: 88/19 M, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bà Nguyễn Thúy N, sinh năm 1987 – vắng mặt.
Nơi cư trú: 408 lô D, Phường 11, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Người làm chứng: Ông Nguyễn Công T, sinh năm 1986 – vắng mặt.
Nơi cư trú: 20-22 đường 8A, ấp 4B, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 23 giờ 30 ngày 20/7/2018, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra Trần Trung H đang dừng xe mô tô biển số 52HB-2014 tại trước địa chỉ 273-275 đường 9A, ấp 4B, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh. Qua kiểm tra, H tự nguyện lấy từ trong ngăn kéo thứ 2 của túi vải mà H đang đeo 05 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu giao nộp cho lực lượng công an và khai nhận là ma túytổng hợp do H và Huỳnh Dương Trung T mua của người khác với mục đích đem bán lại kiếm lời. Do đó, Công an đã tiến hành lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, đưa Trần Trung H về trụ sở Công an xã Bình Hưng làm việc.
Qua lời khai và chỉ điểm của Trần Trung H, vào khoảng 00 giờ 30 ngày 21/7/2018, Công an đã tiến hành kiểm tra Phòng số 205 Khách sạn Prince địa chỉ 20-22 Đường số 8A, ấp 4B, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh mà T đang ở và có mặt. Qua kiểm tra, T đã tự nguyện lấy từ trong bóp da màu đen của T đang để trên mặt bàn ra giao nộp 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu và khai nhận là ma túy tổng hợp. Do đó, Công an cũng đã tiến hành lập hồ sơ bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, đưa Huỳnh Dương Trung T về trụ sở Công an xã Bình Hưng làm việc. Kết quả tets ma túy, cả H và T đều có kết quả dương tính.
Căn cứ Kết luận giám định số 1275/KLGĐ-H ngày 27/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định:
- Tinh thể không màu trong 01 gói nylon hàn kín thu giữ của Huỳnh Dương Trung T là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5338g, loại Methamphetamine.
Căn cứ Kết luận giám định số 1276/KLGĐ-H ngày 27/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định:
- Tinh thể không màu trong 05 gói nylon hàn kín thu giữ của Trần Trung H là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1348g, loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Trần Trung H và Huỳnh Dương Trung T khai nhận: Cả hai có mối quan hệ bạn bè và đều nghiện ma túy, đã nhiều lần sử dụng ma túy với nhau. Do cần tiền để tiêu xài và mua ma túy để sử dụng nên vào sáng ngày 20/7/2018, T rủ H đi mua ma túy về bán kiếm lời thì H đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 52HB-2014 chở Hậu đến khu vực đường Nguyễn Ảnh Thủ, Quận 12 (không nhớ chính xác địa chỉ). Tại đây, T trực tiếp gặp và mua 01 gói ma túy của 01 người đàn ông tên “Anh Hai” (không rõ lai lịch) với giá 2.800.000 đồng, tiền mua ma túy là tiền của T. Mua xong, T đưa gói ma túy cho H cất giữ, sau đó H điều khiển xe mô tô biển số 52HB-2014 chở Thảo đến Khách sạn Prince địa chỉ 20-22 Đường số 8A, ấp 4B, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh thuê phòng 205. Tại đây, H phân chia gói ma túy ra thành 02 phần, 01 phần H bán cho một người tên Tiến (không rõ lai lịch) với giá 1.500.000 đồng tại trước khách sạn. Số ma túy còn lại, H tiếp tục phân ra thành 07 gói nhỏ rồi cất giữ 05 gói ma túy vào ngăn kéo thứ 2 của túi vải màu xanh H đeo trên người, còn 02 gói thì đưa cho T cất giữ và kêu T khi nào có người hỏi mua thì bán. Sau đó, T đã lấy 01 trong 02 gói ma túy ra để cùng sử dụng với H, gói còn lại thì T cất giữ trong bóp da của mình. Một lúc sau, có 01 người tên Quỳnh (không rõ lai lịch) gọi vào số điện thoại 0907087820 của H đặt mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng, H đồng ý và hẹn giao dịch tại ngã tư đường Quốc lộ 50 với đường Tạ Quang Bửu. Khi H điều khiển xe mô tô biển số 52HB-2014 mang theo túi vải có chứa 05 gói ma túy đến trước địa chỉ 273-275 đường 9A, ấp 4B, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh thì bị lực lượng công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. Lời khai của Trần Trung H và Huỳnh Dương Trung T phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 05 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1348g, loại Methamphetamine thu giữ của H.
- 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5338g, loại Methamphetamine thu giữ của T.
- 01 Điện thoại di động màu trắng hiệu FPT cùng 02 sim mà Trần Trung H sử dụng để liên lạc cá nhân và mua bán ma túy.
- 01 xe mô tô biển số 52HB-2014 mà H điều khiển đi bán ma túy, qua xác minh do bà Phu N đứng tên chủ sở hữu. Bà N đã cho con gái là Nguyễn Thúy N chiếc xe này. Ngày 20/7/2018, Huỳnh Dương Trung T là chồng của N đã điều khiển xe mô tô này đi ra ngoài. Bà N không biết việc T sử dụng xe mô tô đi mua ma túy.
- Các dụng cụ dùng để phân chia, cất giữ ma túy của H gồm: 01 cân điện tử màu bạc, 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng, 05 bịch nylon có kích thước khoảng 3x5cm, 01 kéo cắt dài khoảng 10cm, 01 túi vải màu xanh.
- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone cùng 01 sim mà Huỳnh Dương Trung T sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.
- 01 căn cước công dân mang tên Huỳnh Dương Trung T.
Tại bản cáo trạng số 157/CT-VKS ngày 29 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Trần Trung H, Huỳnh Dương Trung T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Trung H từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh Dương Trung T từ 03 năm đến 04 năm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; phạt bổ sung mỗi bị cáo từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Trung H, Huỳnh Dương Trung T khai nhận hành vi như trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét thấy lời khai tại phiên tòa của các bị cáo Trần Trung H, Huỳnh Dương Trung T phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, của người làm chứng, vật chứng của vụ án, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.
[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý và sử dụng chất ma túy của Nhà nước, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội và các loại tội phạm khác. Khi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng vì tham lam, vụ lợi, các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Số ma túy các bị cáo cất giữ nhằm mục đích bán lại cho người khác, qua giám định có khối lượng tổng cộng 1,6686g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.
[3] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận các bị cáo Trần Trung H, Huỳnh Dương Trung T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và xét thấy cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành phạt tù trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội; đồng thời buộc bị cáo nộp phạt bổ sung một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Xét về tính chất mức độ phạm tội, cũng như nhân thân của các bị cáo: Trong vụ án này các bị cáo phạm tội mang tính chất đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ với nhau, cả hai bị cáo đều trực tiếp thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy; bị cáo T là người rủ bị cáo H và bỏ tiền ra cùng H đi mua mua túy về bán lại cho người khác, bị cáo H là người phân lẻ ma túy và đi bán ma túy cho người khác.
Về nhân thân: Bị cáo H có 01 tiền án, ngày 30/6/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 184/2016/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/01/2017, tính đến lần phạm tội này bị cáo chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không biết ăn năn hối cải, làm ăn lương thiện mà lại tiếp tục vi phạm pháp luật, đây là tính tình tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo H được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đối với bị cáo T có nhân thân tốt, mới vi phạm lần đầu và có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự tại Trung đoàn BB88. Do đó, khi quyết định mức hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội cũng như nhân thân của từng bị cáo.
[5] Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai cáo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[6] Về vật chứng vụ án: 05 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1348g, loại Methamphetamine thu giữ của Trần Trung H (Sau giám định được niêm phong để trong 01 bì thư bên ngoài có ghi vụ số 1276/18 cùng các chữ ký ghi tên Trần Trung H, Ngô Giang Thanh Tuấn, Trần Thị Ngọc Tú, Lê Thị Hằng và hình dấu Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh); 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5338g, loại Methamphetamine thu giữ của Huỳnh Dương Trung T (Sau giám định được niêm phong để trong 01 bì thư bên ngoài có ghi vụ số 1275/18 cùng các chữ ký ghi tên Huỳnh Dương Trung T, Nguyễn Công Trường, Trần Thị Ngọc Tú, Lê Thị Hằng và hình dấu Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh); 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng; 05 bịch nylon có kích thước khoảng 3x5cm; 01 kéo cắt dài khoảng 10cm, 01 túi vải màu xanh; xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Đối với: 01 Điện thoại di động màu trắng hiệu FPT cùng 02 sim mà Trần Trung H sử dụng để liên lạc cá nhân và mua bán ma túy; 01 Điện thoại di động hiệu Iphone cùng 01 sim mà Huỳnh Dương Trung T sử dụng để liên lạc mua bán ma túy; 01 cân điện tử màu bạc; xét đây là tài sản các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Đối với 01 xe mô tô biển số 52HB-2014 mà H điều khiển đi bán ma túy, qua xác minh thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thúy N. Bà N không biết và không liên quan đến việc mua bán trái phép ma túy của các bị cáo, bà N yêu cầu được nhận lại chiếc xe trên nên giao trả lại chiếc xe trên cho bà Nguyễn Thúy N.
- Đối với 01 căn cước công dân mang tên Huỳnh Dương Trung T, xét đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên giao trả lại cho bị cáo Thảo.
[7] Về án phí:
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với các bị cáo cũng như xử lý vật chứng vụ án và chấp nhận đề nghị của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
[9] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Trần Trung H, Huỳnh Dương Trung T phạm tội“Mua bán trái phép chất ma túy”;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trần Trung H;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Huỳnh Dương Trung T;
Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử phạt bị cáo Trần Trung H 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/7/2018.
Buộc bị cáo Trần Trung H nộp phạt bổ sung số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.
Xử phạt bị cáo Huỳnh Dương Trung T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/7/2018.
Buộc bị cáo Huỳnh Dương Trung T nộp phạt bổ sung số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng để sung quỹ nhà nước.
Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong bên ngoài có ghi vụ số1276/18 cùng các chữ ký ghi tên Trần Trung H, Ngô Giang Thanh Tuấn, TrầnThị Ngọc Tú, Lê Thị Hằng và hình dấu Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh); 01 (một) bì thư niêm phong bên ngoài có ghi vụ số 1275/18 cùng các chữ ký ghi tên Huỳnh Dương Trung T, Nguyễn Công Trường, Trần Thị Ngọc Tú, Lê Thị Hằng và hình dấu Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh); 01 (một) đoạn ống hút nhựa màu trắng; 05 (năm) bịch nylon có kích thước khoảng 3x5cm; 01 (một) kéo cắt dài khoảng 10cm, 01 (một) túi vải màu xanh.
Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) Điện thoại di động màu trắng hiệu FPT cùng 02 (hai) sim; 01 Điện thoại di động hiệu Iphone cùng 01 (một) sim; 01 (một) cân điện tử màu bạc.
Giao trả lại cho bà Nguyễn Thúy N 01 (một) xe mô tô biển số 52HB- 2014.
Giao trả lại cho bị cáo Huỳnh Dương Trung T 01 (một) căn cước công dân mang tên Huỳnh Dương Trung T.(tất cả vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/11/2018 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh)
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 153/2018/HSST ngày 27/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 153/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về