Bản án 153/2018/HSST ngày 14/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, TP. CẦN THƠ

BẢN ÁN 153/2018/HSST NGÀY 14/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 113/2018/HSST, ngày 16 tháng 5 năm 2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 423/2018/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo :

Bị cáo Trần Ngọc T (Cà Th) sinh năm 1962. Nơi sinh: An Giang.

ĐKHKTT: Không có nơi đăng ký thường trú. Không có nơi cư trú nhất định. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Nghề nghiệp: Bán vé số; Trình độ văn hóa: Không; Con ông: Trần Văn T1 (chết) và bà Trần Thị M (chết); Vợ Trần Thị Kim H, có 03 người con lớn nhất sinh năm 1989 nhỏ nhất sinh năm 1997; Tiền sự: Không; Tiền án: Có 3 tiền án. Ngày 26/4/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/10/2014. Ngày 07/5/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/12/2015. Ngày 28/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xử phạt 2 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/01/2018. Bị bắt tạm giam ngày 27/02/2018. Có mặt.

Bị hại:

Nguyễn Thị Hương S. Vắng mặt.

Trú tại: 548 đường A, phường B, quận C, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 22/02/2018 Trần Ngọc T, đi bán vé số dạo trên tuyến đường A, phường B, quận C khi đến tiệm bán rau cải của chị Nguyễn Thị Hương S ở địa chỉ 548 đường A nhìn thấy chị S đang nằm ngủ bên trong tiệm, nên T lén lút đi vào phía trong đến tủ đựng tiền của chị S, kéo tủ ra lấy trộm 900.000đồng.

Chị S sau khi thức dậy phát hiện mất tiền nên mở camera ra kiểm tra thì phát hiện có 01 người đàn ông đội mũ lưỡi trai, áo sơ mi ngắn tay màu xanh da trời, quần đùi màu đen, bị dị tật ở chân đã có hành vi vào lấy trộm tiền trong tủ của chị S. Đến ngày 25/02/2018 T bán vé số ngang nhà chị S, chị S nhìn thấy T có đặc điện giống người đàn ông lấy trộm tiền của mình nên giữ T lại và trình báo cơ quan chức năng. Đồng thời, chị S giao nộp 01 đĩa DVD có lưu trữ 02 đoạn video ghi lại hình ảnh Trần Ngọc T vào nhà lấy trộm tài sản.

Chị Nguyễn Thị Hương S yêu cầu T trả lại 900.000đồng.

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố tại bản cáo trạng số 148/2018/CT-VKS ngày 14-5-2018 cụ thể:

Truy tố bị cáo Trần Ngọc T (Cà Th)về tội Trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố. Bị cáo chỉ xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội và tranh luận: Kiểm sát viên phân tích đánh giá hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng. Trên cơ sở đó, Kiểm sát viên đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Trách nhiệm dân sự: ghi nhận ý chí bị cáo tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của bị hại.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ninh Kiều, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nội dung: Bị cáo Trần Ngọc T đã có hành vi lén lút đột nhập vào cửa hàng của chị Nguyễn Thị Hương S, mở tủ lấy trộm 900.000đồng của chị S. Hành vi của bị cáo đã bị camerra an ninh của cửa hàng ghi hình được. Lần phạm tội này chưa đủ định lượng để truy tố bị cáo nhưng do bị cáo đã có ba tiền án chưa được xóa án tích, nên Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố bị cáo về Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, là có căn cứ pháp luật.

Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo biết rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, đã có ba tiền án về tội Trộm cắp tài sản. Cả 3 lần bị xử phạt tù, bị cáo vừa chấp hành án xong ra ngoài thời gian rất ngắn, sau đó bị cáo lại tiếp tục phạm tội, cho thấy bị cáo là người rất xem thường pháp luật, khó giáo dục và cải tạo. Bị cáo có việc làm nhưng lại lười biếng, không chịu lao động chính đáng để nuôi sống bản thân, mà chỉ muốn chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ do đó cần phải có mức án phù hợp với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Do xác định các tiền án là cơ sở xác định tội danh và định khung hình phạt, nên bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị Hương S yêu cầu bị cáo bồi thường 900.000đồng, bị cáo đồng ý bồi thường nên ghi nhận.

Về vật chứng: Tịch thu lưu hồ sơ 01 đĩa DVD lưu giữ 2 đoạn video có lưu giữ hình ảnh bị cáo T vào cửa hàng trộm tiền của chị S.

Xét bị cáo hoàn cảnh khó khăn, miễn án phí dân sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên b : Bị cáo Trần Ngọc T (Cà Th) phạm tội “Trộm cắp tài sản” .

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Xử pht: Bị cáo Trần Ngọc T (Cà Th) 02 năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày tạm giam 27/02/2018.

Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng: khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

- Điều 584; Điều 585 Bộ luật dân sự 2015.

Buộc bị cáo bồi thường cho chị Nguyễn Thị Hương S 900.000đồng. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu lưu hồ sơ 01 đĩa DVD. Về án phí:

Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, miễn án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự cĩ quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 và 30 Luật Thi hành án dân.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 153/2018/HSST ngày 14/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:153/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về