TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỪ S, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 152/2020/HSST NGÀY 26/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ VÀ TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM
Ngày 26 tháng 6 năm 2020, tại Nhà văn hóa thôn Kim Bảng, xã Hương Mạc, thị xã Từ S, Tòa án nhân dân thị xã Từ S, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 128/2020/HSST ngày 20 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 139/QĐXX- ST ngày 03/6/2020 đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Duy H1 - Sinh năm 1981.
HKTT: Khu phố CD, phường ĐB, thị xã Từ S, tỉnh Bắc Ninh.
Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Bố đẻ: Nguyễn Duy H, sinh năm 1937; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1942; Gia đình có 08 anh em, bị cáo là con thứ 07.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 23/10/2002 bị đưa đi cơ sở giáo dục bắt buộc Thanh Hà thời hạn 24 tháng đến ngày 23/10/2004 chấp hành xong.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (có mặt).
2/ Hoàng Thị T1 - Sinh năm 1984.
HKTT: Tổ X, phường NTH, thành phố YB, tỉnh yên Bái.
Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Bố đẻ: Hoàng Văn T2, sinh năm 1959 (đã chết); Mẹ đẻ: Hoàng TH, sinh năm 1959; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 02; có chồng là Lê ĐH, sinh năm 1977 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2003.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ S, tỉnh Bắc Ninh truy tố về hành vi như sau:
Hồi 11 giờ 50 phút ngày 25/12/2019, tại khu phố CD, phường ĐB, thị xã Từ S, tỉnh Bắc Ninh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thị xã Từ S, tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang Nguyễn Duy H1, sinh năm 1981 trú tại khu phố CD, phường ĐB có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, thu giữ vật chứng gồm có:
- Thu trên giường trong phòng ngủ tầng 2 của H1 40 túi ni lông màu trắng, trong đó có 20 túi bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, 20 túi bên trong mỗi túi có 01 viên nén hình tròn màu hồng ( được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu K1) - Thu trên nền nhà trong phòng ngủ của H1 có 1 túi nilông màu xanh bên trong có chứa 198 viên nén hình tròn màu hồng, 2 viên nén hình tròn màu xanh; 90 túi gói nhỏ đều được bọc ngoài là lớp giấy màu bạc bên trong chứa chất bột màu trắng; hai túi ni lông màu trắng trong đó 01 túi chứa 06 viên nén hình tròn màu xanh và 01 túi còn lại chứa 50 viên nén hình tròn màu hồng. (Được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu K2).
Căn cứ Lệnh khám xét khẩn cấp số 02 ngày 25/12/2019, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét chỗ ở của H1, kết quả đã thu giữ trên mái tôn tầng 2 sát phòng ngủ của H1 02 túi ni lông màu trắng mỗi túi đều chứa 10 viên nén hình tròn màu hồng (được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu K3); thu giữ tại tủ trong phòng ngủ của H1 số tiền 60.000.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Ngày 25/12/2019, Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định số 27 trưng cầu mẫu thu nghi ma tuý trong phong bì thư K1, K2, K3. Ngày 27/12/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh có kết luận giám định số 51 kết luận:
Chất tinh thể màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu K1 có khối lượng 1,9687 gam; là ma tuý; loại ma tuý Methamphetamine.
Các viên nén hình tròn màu hồng bên trong phong bì thư ký hiệu K1 có khối lượng 2,0641 gam; là ma tuý; loại ma tuý Methamphetamine Các viên nén hình tròn màu hồng và các viên nén hình tròn màu xanh bên trong phong bì thư ký hiệu K2 có khối lượng 25,7124 gam; là ma tuý loại ma tuý Methamphetamine.
Chất bột màu trắng bên trong phong bì thư ký hiệu K2 có khối lượng là 6,4433 gam;
là ma tuý; loại ma tuý Heroine.
Các viên nén hình tròn màu hồng bên trong phong bì thư ký hiệu K3 có khối lượng 2,0279 gam; là ma tuý; loại ma tuý Methamphetamine.
Ngày 27/12/2019, Hoàng Thị T1, sinh năm 1984 trú tại Tổ X, phường NTH, thành phố YB, tỉnh Yên Bái đến Cơ quan điều tra đầu thú về hành vi không tố giác tội phạm đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Duy H1.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Duy H1 và Hoàng Thị T1 khai nhận:
Nguyễn Duy H1 và Hoàng Thị T1 có quan hệ tình cảm với nhau khoảng 6 tháng và đều là người thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Trong thời gian này, T1 và H1 có ở cùng nhau tại phòng ngủ tầng 2 nhà H1 tại khu phố CD, phường ĐB và nhiều lần cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng. Do có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy nên H1 nảy sinh ý định mua ma túy về cất giấu tại phòng để dùng dần. Lần thứ nhất: khoảng 17 giờ 30 ngày 22/12/2019, tại bến xe Bắc Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, H1 đã mua của người đàn ông không quen biết được 200 viên ma túy “ ngựa” đựng trong 1 túi nilông màu xanh, bên trong có chứa 198 viên nén hình tròn màu hồng, 2 viên nén hình tròn màu xanh với giá 7.000.000 đồng. Sau khi mua về cất giấu tại phòng ngủ của mình. Lần thứ 2: Khoảng 15 giờ ngày 24/12/2019, cũng tại bến xe Bắc Ninh, H1 đã mua của người đàn ông không quen biết 10 triệu đồng được số ma túy gồm có: 01 túi ti lông màu xanh bên trong có 200 viên ma tuý ngựa, 01 túi ma tuý Heroine màu trắng và 01 túi ni lông màu trắng chứa ma tuý đá. Sau khi mua được số ma tuý này, H1 đã mang về phòng chia nhỏ ra để sử dụng dần, cụ thể chia ma tuý heroine vào các gói giấy bạc, chia ma tuý đá vào các túi ni lông, còn hai túi ma tuý ngựa có 1 túi H1 vẫn đề nguyên còn 1 túi chia ra các túi ni lông nhỏ có túi 1 viên, có túi 10 viên, có túi 50 viên. Sau khi chia số ma tuý mua được, H1 để ở đầu giưòng ngủ của H1 ở tầng 2 để sử dụng dần và đã sử dụng 1 phần số ma túy mua được. Đến khoảng 19 giờ ngày 24/12/2019, T1 về phòng ngủ của H1 và nhìn thấy số ma tuý H1 để ở đầu giường. T1 và hỏi H1: “ Sao mua nhiều ma tuý thế”. H1 trả lời: “ Mua để dùng dần”. Do có quan hệ tình cảm với H1 nên dù biết việc H1 cất giấu ma túy tại phòng là vi phạm phạm luật nhưng T1 không đi tố giác hành vi của H1. Sau đó, H1 sử dụng ma túy tại phòng, T1 cũng được H1 cho ma túy để sử dụng tại phòng. Đến khoảng 11 giờ 20 phút ngày 25/12/2019, anh Vũ Quang S, sinh năm 1974 trú tại NL, phường NL, quận LB, thành phố Hà Nội là lái xe taxi đến nhà H1 và lên phòng ngủ tầng 2 của H1 để chở T1 đi về quê. Khi anh S lên phòng của H1 thì lúc này lực lượng công an đến kiểm tra, do sợ bị phát hiện nên H1 đã vơ các gói ma túy chạy quanh phòng và vứt số ma tuý của H1 ở các vị trí trong phòng và vứt ra ngoài cửa sổ rơi xuống mái tôn. Sau đó, Lực lượng công an đã lập biên bản bắt quả tang, khám xét khẩn cấp nơi ở của H1 và thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Ngày 27/12/2020, T1 đã đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận nội dung sự việc như đã nêu trên.
Quá trình điều tra xác định được số tiền 60.000.000 đồng thu giữ tại phòng ngủ của Nguyễn Duy H1 là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị Hưng mẹ của H1. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho bà H số tiền này.
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy H1 và Hoàng Thị T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nên ở trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Bản cáo trạng số 86/CTr - VKS ngày 17/4/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Từ S, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo Nguyễn Duy H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h, khoản 3, Điều 249; bị cáo Hoàng Thị T1 Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Từ S, tỉnh Bắc Ninh truy tố về tội “Không tố giác tội phạm” theo, khoản 1, Điều 390 BLHS.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Duy H1 thừa nhận hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo Hoàng Thị T1 biết H1 tàng trữ ma túy nhưng không tố giác tội phạm của H1, là vi phạm pháp luật. Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là đúng, không oan.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thị xã Từ S, tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra chứng cứ, lý lẽ và sau khi phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết liên quan đến trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Duy H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Áp dụng điểm h, khoản 3, 5, Điều 249 BLHS; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51, BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H1 từ 10 năm 06 tháng đến 11 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 25/12/2019. Phạt bổ sung bị cáo từ 10 triệu đến 15 triệu đồng sung ngân sách nhà nước.
Bị cáo Hoàng Thị T1 phạm tội “Không tố giác tội phạm”. Đề nghị Áp dụng khoản 1, Điều 390 BLHS; Điều 38; điểm i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51, Xử phạt bị cáo Hoàng Thị T1 từ 09 tháng đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 27/12/2019.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47, BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy còn lại sau giám định.
Trong phần tranh luận các bị cáo không có ý kiến gì với quan điểm luận tội của đại diện Viện Kiểm sát, khi được nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, lời khai của những người làm chứng có trong hồ sơ, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là thống nhất với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định của Phòng KTHS- Công an tỉnh Bắc Ninh. Đã đủ căn cứ khẳng định, ngày 25/12/2019, bị cáo Nguyễn Duy H1 đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy tại nơi bị cáo ở với mục đích để sử dụng, bị cáo T1 biết bị cáo H1 tàng trữ ma túy nhưng không tố giác. Bị cáo H1 Tàng trữ 31,7731 gam ma túy Methamphetamine và 6,4433gam ma tuý Heroine. Tổng 02 loại là 38.2164 gam. Tội phạm và hình phạt đối với H1 được quy định tại điểm h, khoản 3, Điều 249 BLHS, đối với Hoàng Thị T1 tội phạm được quy định tại khoản 1, Điều 390 BLHS do vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Từ S truy tố các bị cáo tội danh trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét tính chất vụ án và nhân thân của các bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, hành vi phạm tội của bị cáo còn gây tác hại đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, hành vi còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy đối với các bị cáo cần phải có một mức hình phạt tương xứng cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới đảm bảo đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51, bị cáo T1 phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng điểm i khoản 1, điều 51 và ra đầu thú nên được áp dụng thêm khoản 2, Điều 51, BLHS do vậy cần áp dụng cho bị cáo.
Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù giam, đối với bị cáo H1 cần phải áp dụng thêm hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.
Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47, BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy còn lại sau giám định.
Liên quan trong vụ án còn có: Đối với người đã bán ma túy cho H1 ngày 22/12/2019 và 24/12/2019 tại bến xe thành phố Bắc Ninh: Quá trình điều tra, H1 khai nhận không biết biết tên, tuổi, địa chỉ của người này. Vì vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.
Đối với số tiền khi khám nhà thu 60.000.000đ thu giữ tại phòng ngủ của Nguyễn Duy H1. Cơ quan điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị H mẹ của H1 và đã xử lý trả lại cho bà Hưng số tiền này xét phù hợp chấp nhận.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Duy H1, Hoàng Thị T1 ngày 24/12/2019, Công an thị xã Từ S đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi này là phù hợp.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; bị cáo Hoàng Thị T1 phạm tội “Không tố giác tội phạm.” Áp dụng điểm h, khoản 3, 5, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51; điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
- Xử phạt: Nguyễn Duy H1 10 năm 06 tháng tù (Mười năm sáu tháng). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 25/12/2019. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày 26/6/2020 để đảm bảo thi hành án. Phạt bị cáo 10 triệu đồng sung ngân sách nhà nước.
Áp dụng khoản 1, Điều 390; Điều 38; điểm i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 BLHS; Điều 329 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
- Xử phạt: Hoàng Thị T1 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 27/12/2019. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày 26/6/2020 để đảm bảo thi hành án.
- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy còn lại sau giám định. Theo biên bản bàn giao giữa Công an thị xã Từ S với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Từ S, tỉnh Bắc Ninh ngày 16/4/2020.
- Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 152/2020/HSST ngày 26/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và tội không tố giác tội phạm
Số hiệu: | 152/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về