Bản án 152/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 152/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 160/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu T, sinh năm 1987, tại Tây Ninh; Nơi thường trú: Ấp T, xã L, huyện C, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn V và bà Lê Thị H; bị cáo có vợ tên Đặng Thị Bích T và 01 con sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2019 đến nay (có mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Đỗ Tường V (vắng mặt), Nguyễn Văn H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Hữu T là người nghiện chất ma túy. Vào khoảng 11 giờ ngày 08/9/2019, bị cáo Nguyễn Hữu T đi xe buýt đến bến xe huyện M, thành phố Hồ Chí Minh mua của người thanh niên không rõ họ tên địa chỉ 01 gói chất ma túy đá với giá 300.000 đồng để sử dụng. Sau đó, bị cáo T đem về nhà trọ của bị cáo T đang thuê ở thuộc ấp G, xã N, huyện Đ, tỉnh Long An lấy ra một ít để sử dụng, phần ma túy còn lại bị cáo T cất giấu bên trong bóp da màu đen của bị cáo T. Đến khoảng 7 giờ 30 phút ngày 13/9/2019, bị cáo T lấy bóp da cá nhân màu đen bên trong có cất giấu gói ma túy đá bỏ trong túi quần Jean phía sau bên phải đang mặc trên người rồi đi đến công ty TNHH SXTM- XNK D thuộc ấp H, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An để đi làm, khi đến cổng công ty thì bị lực lượng Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An kiểm tra phát hiện gói ma túy đá bị cáo T cất giấu trong bóp da nên tiến hành tạm giữ T và vật chứng để điều tra xử lý.

Vật chứng thu giữ quả tang gồm có: một gói chất ma túy đá bị cáo T cất giấu; một 01 điện thoại di động hiệu Blackberry, màu đen, sim số: 0987066088; một 01 bóp da màu đen.

Tại kết luận giám định số 4237/C09B/KLGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2019 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: một gói chất ma túy đá Nguyễn Hữu T mua về cất giấu để sử dụng bị bắt quả tang có chứa thành phần Methamphetamine, khối lượng là 0,4988 gam (Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,4030 gam được niêm phong).

Tại bản cáo trạng số 156/CT-VKSĐH ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo Nguyễn Hữu T gây ra; đồng thời căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T mức hình phạt từ 02 năm tù đến 02 năm 6 tháng tù; đề nghị áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo T 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

Về tang vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong là ma túy có khối lượng là 0,4030 gam gam, loại Methamphetamine của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh hoàn lại sau giám định và 01 bóp da màu đen thu giữ của bị cáo T;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu T 01 (một) điện thoại di động hiệu Blackberry màu đen, sim số 0987066088. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Hữu T không có thu lợi bất chính từ việc thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị không đề cập, xem xét.

Đối với người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Nguyễn Hữu T tại khu vực bến xe huyện M, thành phố Hồ Chí Minh, do không xác định được nhân thân lai lịch của người này và chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo T, Cơ quan điều tra tiếp tục truy xét làm rõ xử lý sau nên đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hữu T hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt người làm chứng nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Hữu T trước Tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang vào lúc 09 giờ 00 phút ngày 13 tháng 9 năm 2019, phù hợp với lời khai của người có người làm chứng cùng với bản kết luận giám định số 4237/C09B/KLGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh và phù hợp với nội dung bản cáo trạng. Thấy rằng, bị cáo Nguyễn Hữu T là người nghiện ma túy, khoảng 09 giờ 00 ngày 13/9/2019, tại khu vực ấp H, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An, bị cáo Nguyễn Hữu T bị lực lượng Công an huyện Đức Hòa bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong một bóp da màu đen để sử dụng. Kết luận giám định gói chất ma túy mà bị cáo T cất giấu có chứa thành phần Methamphetamine, có tổng khối lượng là 0.4988 gam. Qua điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T khai nhận khối lượng ma túy trên bị cáo mua của người không rõ họ tên, địa chỉ tại khu vực bến xe M, thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng, bị cáo đã sử dụng được một phần, phần còn lại cất giấu trong một bóp da màu đen để tiếp tục sử dụng nhưng chưa sử dụng thì bị bắt giữ. Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T với tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm hại trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây thiệt hại lớn về kinh tế, gây tổn hại sức khỏe con người, làm suy thoái nòi giống, gây mất trật tự xã hội.

Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của ma túy đối với xã hội và bản thân bị cáo. Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những nguyên nhân của nhiều tội phạm khác, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, bị nghiêm cấm vận chuyển, mua bán, tàng trữ dưới bất kỳ hình thức nào nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự, do đó cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo T phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên khi áp dụng hình phạt cho bị cáo có xem xét giảm nhẹ một phần.

Từ phân tích [3] và [4], xét theo lời đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hữu T là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5]. Về tang vật chứng:

Căn cứ vào Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Đối với 01 gói niêm phong là ma túy có khối lượng là 0,4030 gam, loại Methamphetamine của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh hoàn lại sau giám định và 01 bóp da màu đen bị cáo T dùng để cất giấu ma túy nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Blackberry màu đen, sim số 0987066088 thu giữ của bị cáo T, không có liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu T.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Hữu T không có thu lợi bất chính từ việc thực hiện hành vi phạm tội nên không đề cập, xem xét.

[7]. Đối với người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Nguyễn Hữu T tại khu vực bến xe huyện M, thành phố Hồ Chí Minh, do không xác định được nhân thân lai lịch của người này và chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo T, Cơ quan điều tra tiếp tục truy xét làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2019.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Hữu T 45 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 25/11/2019) để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về tang vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong là ma túy có khối lượng 0.4030 gam, loại Methamphetamine của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh hoàn lại sau giám định (theo kết luận giám định số 4237/C09B/KLGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2019); 01 bóp da màu đen.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu T 01 (một) điện thoại di động hiệu Blackberry màu đen, sim số 0987066088.

Tang vật trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 32 – 25/11/2019 ngày 25 tháng 11 năm 2019.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo Nguyễn Hữu T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

Án này là sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 152/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:152/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về