TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 152/2018/HS-PT NGÀY 05/04/2018 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM
Trong ngày 05/4/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 107/2018/TLPT-HS ngày 27/02/2018 đối với bị cáo Đặng Thị Mai L theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1141/2018/QĐXXPT-HS ngày 15/3/2018 do có kháng cáo của bị cáo Đặng Thị Mai L đối với bản án sơ thẩm số 16/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 của Tòa án nhân dân Quận X , Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo bị kháng cáo:
Họ và tên: Đặng Thị Mai L; giới tính: nữ; sinh năm 1986 tại tỉnh An Giang; nơi đăng ký thường trú: huyện Phú T, tỉnh An Giang; nơi cư trú: huyện Đức H, tỉnh Long An; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: (không); quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Ngọc H và bà Ngô Thị V; hoàn cảnh gia đình: chồng tên Nguyễn Thanh C (chết), có 2 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2008;
Tiền án, tiền sự: (không); Bắt, tạm giữ: 14/8/2017; Tạm giam: 17/8/2017;
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đặng Thị Mai L là chủ quán giải khát “Kim M” trên địa bàn Khu phố 2, phường Trung Mỹ Y, Quận X , Thành phố Hồ Chí Minh. Vào khoảng tháng 7/2016, Phạm Lê Thị Ánh K và Trần Thị Tuyết Q đến quán của Đặng Thị Mai L để uống nước. Qua trò chuyện với Phạm Lê Thị Ánh K và Trần Thị Tuyết Q, biết được Phạm Lê Thị Ánh K và Trần Thị Tuyết Q không có việc làm và muốn bán dâm để kiếm tiền nên Đặng Thị Mai L hứa khi biết người muốn mua dâm thì sẽ giới thiệu.
Vào ngày 10/8/2016, có một người đàn ông không rõ lai lịch đến quán của Đặng Thị Mai L uống cà phê và cho biết muốn mua dâm. Đặng Thị Mai L điện thoại giới thiệu cho Phạm Lê Thị Ánh K, Phạm Lê Thị Ánh K nói bán dâm một lần với giá 600.000đ, tiền thuê phòng thì người mua dâm tự trả. Người đàn ông này trao đổi với Phạm Lê Thị Ánh K qua điện thoại và đến khách sạn Quang Trung, địa chỉ số Khu phố 2, phường Đông Hưng T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm Phạm Lê Thị Ánh K. Do bận giữ con nhỏ mới sinh nên Phạm Lê Thị Ánh K có bảo với Trần Thị Tuyết Q có đi bán dâm được không, Trần Thị Tuyết Q đồng ý. Sau đó, Phạm Lê Thị Ánh K chở Trần Thị Tuyết Q đến khách sạn vừa nêu bán dâm cho cho người đàn ông đã nêu với giá 600.000đ. Sau khi bán dâm, Trần Thị Tuyết Q đưa cho Phạm Lê Thị Ánh K 100.000đ để Phạm Lê Thị Ánh K đưa lại cho Đặng Thị Mai L. Sau đó, Phạm Lê Thị Ánh K đã đưa lại cho Đặng Thị Mai L số tiền này ở tại quán “Kim M”.
Khoảng 14 giờ ngày 17/8/2016, Nguyễn Thanh R và Lê Văn S đến quán của Đặng Thị Mai L uống nước và hỏi mua dâm. Đặng Thị Mai L điện thoại cho Phạm Lê Thị Ánh K nói chuyện, Phạm Lê Thị Ánh K đồng ý bán dâm với giá 600.000đ một lần cho một người, tiền phòng do người mua dâm trả. Đặng Thị Mai L nói lại cho Nguyễn Thanh R và Lê Văn S biết, Nguyễn Thanh R và Lê Văn S đồng ý và nhờ Đặng Thị Mai L giúp việc thuê khách sạn. Sau đó, Đặng Thị Mai L đặt 2 phòng ở khách sạn Quang E và nhận 1.200.000đ của Nguyễn Thanh R. Vào lúc 15 giờ 15 phút ngày 17/8/2016, trong lúc Phạm Lê Thị Ánh K và Trần Thị Tuyết Q đang bán dâm cho Nguyễn Thanh R và Lê Văn S tại khách sạn Quang E thì bị Công an bắt quả tang.
Sau khi phạm tội, bị cáo bỏ trốn. Ngày 14/8/2017, bị cáo bị bắt theo Lệnh truy nã.
Tại bản cáo trạng số 216/CT-VKS-HS ngày 20/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân Quận X truy tố bị cáo về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm d và e khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Tại bản án số 16/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 của Tòa án nhân dân Quận X , Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Đặng Thị Mai L “Môi giới mại dâm”.
Áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt Đặng Thị Mai L 4 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/8/2017;
Kiến nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét hành vi làm trung gian dẫn dắt cho gái mại dâm và khách quan hệ tình dục đối với Phạm Lê Thị Ánh K.
Ngoài ra, bản án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo.
Ngày 29/01/2018, Tòa án nhân dân Quận X nhận được đơn kháng cáo của bị cáo với nội dung: Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ già, chồng chết, bị cáo là lao động chính, phải nuôi 2 con nhỏ. Do vậy, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và trình bày bổ sung như sau: Vì hoàn cảnh bị cáo quá nghèo, chồng bị cáo đã chết, bị cáo phải một mình nuôi 2 con còn nhỏ, do lầm lỡ nên đã phạm tội. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sớm được trở về để nuôi 2 con nhỏ.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Việc Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Môi giới mại dâm” theo điểm d, đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng luật pháp; mức án đã tuyên phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Hành vi của Phạm Lê Thị Ánh K chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Viện kiểm sát nhân dân Quận X không truy tố đối với Phạm Lê Thị Ánh K là đúng pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận X , Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Quận X , Thẩm phán đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2]. Căn cứ “Biên bản sự việc” do Công an phường Đông Hưng T, Quận X , lập lúc 15 giờ 30 phút ngày 17/8/2016, lời khai của bị cáo Đặng Thị Mai L, những người có liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác, có căn cứ để xác định rằng vào ngày 10/8/2016 và 17/8/2016 bị cáo đã có hành vi làm môi giới cho Phạm Lê Thị Ánh K và Trần Thị Tuyết Q bán dâm cho khách mua dâm. Bị cáo đã được hưởng lợi 100.000đ từ việc làm môi giới bán dâm. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn trật tự cộng, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai trái, bị luật pháp nghiêm cấm nhưng do động cơ tư lợi nên vẫn cố ý vi phạm. Đối chiếu với quy định của pháp luật, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã phạm tội “Môi giới mại dâm” theo điểm d và e khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Bộ luật hình sự năm 1999) với mức hình phạt được quy định là từ 3 năm đến 10 năm tù. Tuy nhiên, nếu đối chiếu hành vi vi phạm của bị cáo với quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự năm 2015) thì bị cáo sẽ bị kết án về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 2 Điều 328 với mức án từ 3 năm đến 7 năm tù. Đây là quy định có lợi cho bị cáo. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng pháp luật, phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.
[3]. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo và áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử lý là có căn cứ. Bị cáo là phụ nữ đơn thân, là lao động chính trong gia đình phải nuôi 2 con nhỏ chưa thành niên, chồng đã chết; số tiền hưởng lợi bất chính nhỏ (100.000đ), trong quá trình điều tra bị cáo cũng đã tự nguyện nộp lại cho cơ quan điều tra số tiền này. Tuy nhiên, các tình tiết này chưa được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét. Mức án 4 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là quá nghiêm khắc so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng. Vì các lý do đã nêu, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[4]. Về việc Tòa án nhân dân Quận X kiến nghị “xem xét hành vi làm trung gian dẫn dắt cho gái mại dâm và khách quan hệ tình dục đối với Hoàng”: Mặc dù vào ngày 10/8/2016, Phạm Lê Thị Ánh K có hành vi đưa Trần Thị Tuyết Q đến khách sạn để bán dâm. Tuy nhiên, hành vi này có tính bộc phát, xuất phát từ việc Phạm Lê Thị Ánh K phải trông con, không thể đi bán dâm cho khách theo như đã thỏa thuận với Đặng Thị Mai L nên đã nhờ Trần Thị Tuyết Q đi bán dâm, Phạm Lê Thị Ánh K cũng không được hưởng lợi từ việc này; hành vi sai phạm này do Phạm Lê Thị Ánh K tự khai nhận; mặt khác cũng không xác định được người mua dâm. Hành vi của Phạm Lê Thị Ánh K tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội là không đáng kể nên không nhất thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc Viện kiểm sát nhân dân Quận X không xem hành vi của Phạm Lê Thị Ánh K là tội phạm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015. Theo quy định tại điều luật vừa nêu thì trong trường hợp này, lẽ ra Viện kiểm sát nhân dân Quận X phải đề nghị Công an Quận X xử phạt hành chính đối với Phạm Lê Thị Ánh K, hoặc Công an Quận X phải chủ động xử phạt hành chính đối với Phạm Lê Thị Ánh K về hành vi môi giới mãi dâm. Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân Quận X và Công an Quận X đã không thực hiện việc làm vừa nêu là có sự thiếu sót; tính đến nay thì đã hết thời hiệu xử phạt hành chính đối với Phạm Lê Thị Ánh K về hành vi môi giới mãi dâm. Thiếu sót đã nêu cần phải được rút kinh nghiệm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 16/2018/HS-ST ngày 23/01/2018 của Tòa án nhân dân Quận X , Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyên bố bị cáo Đặng Thị Mai L phạm tội “Môi giới mại dâm”.
Áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017,
Xử phạt Đặng Thị Mai L 3 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/8/2017;
2. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, kiến nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 152/2018/HS-PT ngày 05/04/2018 về tội môi giới mại dâm
Số hiệu: | 152/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về