TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 152/2017/HS-PT NGÀY 25/08/2017 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã M H, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số: 101/2017/TLHS-PT ngày 03 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo Huỳnh Phước H do có kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm 33/2017/HS-ST ngày 23/05/2017 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
- Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:
Huỳnh Phước H (H); Sinh năm 1993; HKTT: ấp An B, xã Bình A, huyện C T, tỉnh Kiên Giang; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Buôn bán; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: Không; Con ông Huỳnh Chí T; sinh năm 1958 và bà Huỳnh Thị A; sinh năm 1954; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo được cho tại ngoại để điều tra cho đến nay, (có mặt).
- Người bào chữa theo yêu cầu của bị cáo:
Luật sư: Đường Văn Tấn - Văn phòng luật sư Đường Minh Quang thuộc đoàn luật sư tỉnh Kiên Giang.
- Người bị hại:
Em Ngô Ngọc M; sinh năm 2003 (có mặt)
- Đại diện hợp pháp cho người bị hại có kháng cáo:
Bà Ngô Thị Kim H; sinh năm 1982 (có mặt)
Cùng trú tại: ấp Minh P, xã Bình A, huyện C T, Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào năm 2015 chị Ngô Thị Kim H là mẹ ruột cháu Ngô Ngọc M, sinh năm 2003 và Ngô Hữu T, sinh năm 2006, tạm trú tại ấp Minh P, xã Bình A, huyện C T, có nợ tiền lấy vé số của đại lý “T” do bà Huỳnh Thị A là chủ số tiền khoảng 02 triệu đồng, Chị H không trả tiền cho bà A mà lại còn lấy vé số nơi khác đi bán, bà A đã nhiều lần gặp chị H và chị H có hứa nếu không trả tiền nợ sẽ chặn đường lấy vé số trừ nợ. Vào khoảng 07 giờ , ngày 24 tháng 12 năm 2016
H nghe có người nói là con ruột của chị Ngô Thị Kim H đang đi bán vé số dạo tại ấp An B, xã Bình A, huyện C T, tỉnh Kiên Giang. Lúc này, Huỳnh Phước H liền nhờ cha ruột là ông Huỳnh Chí T chở đi tìm. Khi đến nơi ông T đậu xe lại còn H đến chặn đường M, H hỏi Mi “ Mày có trả tiền không ”M nói “Mẹ con hứa trả tiền cho chú rồi mà” H nói “Mẹ mày hứa 02 tháng mấy rồi mà có trả đâu”, lúc này M lấy vé số giấu sau lưng, thấy vậy H dùng tay trái chụp lấy vé số của M đang cầm trên tay phải, M dùng tay trái cào cấu, tay phải của H bị trầy xước, em của M là T dùng cây đánh và dùng đá ném H. Khi lấy được vé số H đếm được khoảng 145 tờ đài Hậu Giang và đài Long An với mệnh giá 10.000đồng/tờ rồi đến chỗ ông T chở H về nhà. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì H đưa cho chị Huỳnh Mỹ H đem ra trả lại cho đại lý vé số ở Rạch Sỏi.
* Vật chứng trong vụ án thu giữ được:
Về vật chứng thu giữ trong vụ án: 145 tờ vé số gia đình bị cáo Huỳnh Phước H đã trả lại cho Đại lý vé số Trường A ở Rạch Sỏi.
*Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 33/2017/HS-ST ngày 23/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Phước H phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 135; điểm h khoản 1 Điều 48; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 và Điều 33 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Phước H 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 31/5/2017, bị cáo Huỳnh Phước H có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo.
Ngày 31/5/2017, đại diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 điều 248 BLTTHS không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hai, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày:
Luật sư: Nhất trí với tội danh. Tuy nhiên bản án sơ thẩm đã áp dụng chưa đầy đủ cho bị cáo, trong vụ án này cũng có một phần lỗi của người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại cũng có làm đơn kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo. Do đó đề nghị HĐXX áp dụng điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS là phạm tội gây thiệt hại không lớn và phạm tội ích nghiêm trọng, từ những lý do nêu trên kính mong HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo chỉ xin HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo.
Đại diện hợp pháp của người bị hại tại phiên tòa cũng xin cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào năm 2015 bà Ngô Thị Kim H có lấy vé số và nợ lại mẹ bị cáo số tiền khoảng 2.000.000 đồng mặc dù mẹ bị cáo đã nhiều lần gặp bà H đòi tiền nhưng bà H vẫn không trả. Đến khoảng 07 giờ, ngày 24/12/2016 bị cáo phát hiện em Ngô Ngọc M và em Ngô Hữu T (con ruột bà H) đang bán vé số dạo ở ấp An B, xã B An, huyện C T nên bị cáo chặn đường lấy 145 tấm vé số, mệnh giá 10.000 đồng của em M để trừ tiền nợ, rồi sau đó bị cáo bỏ đi. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 1.450.000 đồng.
[2] Hành vi của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã dùng vũ lực, thủ đoạn để uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương và an toàn xã hội. Do đó Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử bị cáo H về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoan 1 Điêu 135 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Sau khi sơ thẩm xét xử xong, bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại đều có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo. Xét đơn kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại Hội đồng xét xử thấy rằng; Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 47 BLHS, xử phạt mức án 06 tháng tù dưới khung hình phạt là phù hợp đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên bị cáo phạm tội nghiêm trọng mức án từ 01 năm đến 05 năm tù, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ tại Điều 46 BLHS và 01 tình tiết tăng nặng tại điểm h khoản 1 Điều 48 BLHS là phạm tội đối với trẻ em. Nên kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại và lời bào chữa của luật sư không có tình tiết nào mới, nên không đủ điều kiện cho bị cáo được hưởng án treo theo Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Tòa án nhân dân tối cao. Do vậy, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại. Áp dụng khoản 1 Điều 135; điểm h khoản 1 Điều 48; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 và Điều 33 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Phước H 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyêt đinh khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 152/2017/HS-PT ngày 25/08/2017 về tội cưỡng đoạt tài sản
Số hiệu: | 152/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về