Bản án 15/2021/HS-ST ngày 18/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2021/TLST- HS ngày 05 tháng 5 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Văn Ng - sinh ngày 30/10/1988 tại Bảo Yên, Lào Cai;

Nơi cư trú: Bản M, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn V (đã chết) và bà Phạm Thị H – sinh năm 1969; Bị cáo có vợ là Mông Thị Đ sinh năm 1989; Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013.

Tiền án: Không;

Tiền sự: 01. Ngày 16/12/2020 bị công an thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên ra QĐ xử phạt VPHC số 05/QĐ-XPHC xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/02/2021. Hiện bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Yên.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Đ - sinh năm 1974 Địa chỉ: Bản C, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đinh Văn C - sinh năm 1971. Địa chỉ: Tổ 6B, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 6 giờ sáng ngày 14/01/2021, bị cáo Lê Văn Ng điều khiển xe mô tô BKS 24Y1-070.04 chở vợ là Mông Thị Đ đến nhà chị Nguyễn Thị Đ (tại bản C, xã X, huyện B) để giúp đám cưới. Đến khoảng 00 giờ cùng ngày Nguyên nhìn thấy ở bãi đất trống trước cửa nhà chị Đào có 01 chiếc xe máy HONDA BLADE BKS 24Y1-208.81 vẫn đang cắm chìa khóa nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe để lấy tiền tiêu sài. Quan sát xung quanh thấy không có người, bị cáo lấy một chiếc bảo hiểm để ở hiên nhà đội lên đầu, đi lại gần chiếc xe máy ngồi lên xe, gạt chân chống, dùng chân đẩy xe đi đến đường tỉnh lộ 160 cách nhà chị Đào khoảng 100m mới nổ máy điều khiển xe đi theo đường quốc lộ 279 ra nhà nghỉ Q ở bản M, xã T, huyện B để thuê phòng ngủ. Tại đây bị cáo kiểm tra cốp xe thì thấy trong cốp có đăng ký xe mô tô BKS 24Y1-208.81 mang tên Nguyễn Thị Đ và giấy tờ cá nhân của vợ chồng chị Đ. Đến khoảng 16 giờ ngày 16/01/2021 bị cáo đến gặp anh Đinh Đức A (chủ nhà Quyền A) ở tổ 2, thị trấn P, huyện B, nói với anh Đức A đó là xe của vợ mình và nhờ anh Đ bán hộ. Anh Đ đưa bị cáo đến gặp anh Đinh Văn Ch tại tổ, thị trấn P huyện B, tại đây bị cáo vẫn nói dối là xe của vợ mình và bán lại cho anh C với giá là 13.000.000đ. Sau khi bán xe xong bị cáo lấy tiền, cầm mũ bảo hiểm và giấy tờ tùy thân của vợ chồng chị Đ bắt xe lên huyện B chơi. Đến ngày 20/01/2021 anh Đinh C đã đến Công an huyện Bảo Yên để giao nộp đăng ký xe và chiếc xe đã mua của bị cáo. Ngày 21/01/2021 bị cáo Nmang mũ bảo hiểm cùng giấy tờ cá nhân sang trả cho vợ chồng chị Đ, sau đó bị cáo được Công an huyện Bảo Yên triệu tập lên làm việc, tại đây bị cáo Ng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐG ngày 26/02/2021 của hội đồng định giá tài sản tố tụng huyện Bảo Yên kết luận: Giá trị của xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE màu xanh đen mang BKS 24Y1-208.81 có giá 17.550.000đ (Mười bảy triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 04/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Lê Văn Ng về tội "Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn Ng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn Ng từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án, không đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Văn Ng tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác đã có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Ngày 14/01/2021 bị cáo Lê Văn Nguyễn đã có hành vi trộm cắp của chị Nguyễn Thị Đ 01 xe mô tô HONDA BLADE mang BKS 24Y1-208.81 có giá 17.550.000đ để lấy tiền tiêu sài cá nhân. Như vậy, có cơ sở để khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về hình phạt: Bị cáo có 01 tiền sự bị xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn huyện Bảo Yên. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Lê Văn Ng không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo đã khắc phục hậu quả bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường gì; bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có việc làm ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại Nguyễn Thị Đào đã được nhận lại tài sản; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đinh Văn Chiến đã được nhận lại số tiền 13.000.000 đồng. Đến nay chị Đào, anh Chiến không có yêu cầu bồi thường thêm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về vật chứng vụ án: Chiếc xe máy HONDA BLADE mang BKS 24Y1- 208.81 và 01 đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị Đào đã được trả lại cho bị hại, nên HĐXX không xem xét.

[8] Về các vấn đề khác liên quan trong vụ án:

Đối với anh Đinh Văn Ch là người mua chiếc xe máy của bị cáo và anh Đinh Đ là người được bị cáo nhờ giới thiệu bán hộ xe máy. Quá trình điều tra xác định do bị cáo nói đó là xe của vợ bị cáo nên anh Đ, anh C không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có, vì vậy không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp.

[9] Về đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo:

Đối với đề nghị của Kiểm sát viên về điều luật áp dụng là phù hợp, tuy nhiên do bị cáo phạm tội gây thiệt hại chưa lớn nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, mức hình phạt như đề nghị của Kiểm sát viên chưa phù hợp, do vậy Hội đồng xét xử sẽ xem xét quyết định mức hình phạt đảm bảo tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung đồng thời cũng thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước và pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Văn Ng phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Lê Văn Ng 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo 22/02/2021.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lê Văn Ng phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

428
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2021/HS-ST ngày 18/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về