TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2021/TLST - HS ngày 22 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST - HS ngày 28/4/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Lâm D, Sinh ngày: 23 tháng 7 năm 1999tại: tỉnh Đăk Nông; Nguyên quán: huyện Bình S, tỉnh Quảng Ngãi; trú tại: thôn 05, xã Nâm N, huyện Đăk S, tỉnh Đăk Nông; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: làm nông; con ông: Trần Đình A, Sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị Tuyết H, Sinh năm:
1970; Tiền án: 02 tiền án: Ngày 25/10/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xử phạt 08 tháng 10 ngày tù theo bản án số 51/2017/HS-ST và ngày 07/3/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xử phạt 01 năm tù theo bản án số 14/2019/HS-ST đều về tội “Trộm cắp tài sản”. Tiền sự: 03 tiền sự: Ngày 23/9/2018, bị Công an huyện Đắk Song xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 26/02/2020, bị Công an xã Nâm N, huyện Đắk S xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 20/8/2020, bị Chủ tịch UBND xã Nâm N, huyện Đắk S ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã từ ngày 20/8/2020 đến 20/11/2020. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2020 - có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Trần Văn B, địa chỉ: Thôn Đăk K, xã Đắk N, huyện Đắk S – vắng mặt.
2. Anh Phan Duy H, địa chỉ: Thôn 10, xã Nâm N, huyện Đăk S, tỉnh Đăk Nông – vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Đào Minh D, địa chỉ: Thôn 10, xã Nâm N, huyện Đăk S, tỉnh Đăk Nông – vắng mặt.
2. Anh Lương Văn H, địa chỉ: Thôn 10, xã Nâm N, huyện Đăk S, tỉnh Đăk Nông – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Lâm D là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20 tháng 12 năm 2020, D dùng số điện thoại 0965986940 gọi cho đối tượng tên H (chưa rõ nhân thân lai lịch) để mua 1.500.000 đồng ma túy. Khoảng 19 giờ cùng ngày, H hẹn D đi đến khu vực ngã tư cầu 20 thì gọi cho H để giao dịch. Lúc này, D đang ở nhà anh Trần Văn B tại thôn Đăk K, xã Đắk N, huyện Đắk S nên D đã mượn 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 93H1-025.44 của anh B và điều khiển đi ra ngã tư cầu 20 thuộc thôn 10, xã Nâm N D gọi điện cho H thì H bảo D cầm tiền đưa đến gửi ở tiệm điện thoại Duy Hạnh của anh Phan Duy H ở thôn 10, xã Nâm N. Đến đây, D đưa cho anh H số tiền 1.450.000 đồng. Sau đó, H gọi và chỉ cho D chạy vào khu vực dốc tử thần thuộc thôn 10, xã Nâm N, huyện Đăk S. Đến nơi, D gọi cho H thì H chỉ cho D biết gói ma túy H để ở trong một chiếc khẩu trang, để ở cột mốc đầu tiên trên đường đi vào, bên tay phải và có để cục đất đè lên. D đi đến vị trí H chỉ và nhặt gói ma túy lên. Sau đó, D cầm khẩu trang chứa ma túy treo lên móc của xe ở phía trước bên trái và điều khiển xe mô tô đi về hướng Sình Tre để sử dụng, đi được khoảng 100 m thì D bị lực lượng CSĐT Công an huyện Đắk S bắt quả tang.
Tại bản kết luận giám định số 181/KLMT-PC09 ngày 25 tháng 12 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilon màu trắng được niêm phong trong bì thư gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 0,2940 gam là Methamphetamine. Hoàn lại sau giám định 0,2076 gam Methamphetamine.
Tại bản Cáo trạng số 15/CT-VKS-ĐS ngày 22/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song đã truy tố bị cáo Trần Lâm D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Kết quả xét hỏi tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận VKSND huyện Đăk Song truy tố bị cáo là đúng, không oan.
Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) Tuyên bố bị cáo Trần Lâm D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” , áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Lâm D từ 05 đến 06 năm tù năm tù.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị:
Tịch thu tiêu hủy 0,2076 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, biển kiểm soát 93H1- 025.44 mà Trần Lâm D mượn của anh Trần Văn B sử dụng để đi mua ma túy. Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mang tên chủ sở hữu là chị Võ Thị Thanh T. Anh Trần Văn B khai nhận mua lại chiếc xe này của chị T vào ngày 15/10/2019 nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Hiện tại, chị Võ Thị Thanh T không có mặt tại địa phương nên chưa tiến hành làm rõ chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song tiếp tục xác minh, khi có kết quả sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, loại bàn phím bên trong có sim số 0965986940 mà D sử dụng để trao đổi mua ma túy nên đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Tại phiên tòa bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Vào khoảng khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20 tháng 12 năm 2020 tại thôn 10, xã Nâm N, huyện Đăk S. Sau khi mua ma túy của 01 đối tượng tên H (chưa rõ lai lịch), bị cáo đã treo lên móc của xe mô tô biển kiểm soát 93H1-025.44 do mình điều khiển, ở phía trước bên trái để về sử sụng thì bị lực lượng CSĐT Công an huyện Đắk Song bắt quả tang. Theo kết luận giám định thì khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 0,2940 gam Methamphetamine. Bị cáo đã có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và 03 tiền sự, chưa được xóa án tích mà tiếp tục tái phạm. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” . Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo theo điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.
Điều 249. “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a)..;
o) Tái phạm nguy hiểm”.
[3]. Xét hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến chế độ quản lý của nhà nước đối với chất ma túy được pháp luật nghiêm cấm . Đây cũng là nguyên nhân, tiền đề gây ra các tội phạm khác hoặc làm giảm sút kinh tế gia đình và tác động xấu đến xã hội. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Mặc dù nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[4]. Về nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngày 07/12/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk S ra quyết định số 04/2018/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 12 tháng. Tuy nhiên, trong thời gian chưa đi cai nghiện bị cáo bị bắt đi thi hành án trong vụ án “Trộm cắp tài sản”. Đến nay đã hết thời hiệu thi hành quyết định này. Vì vậy, không xác định tiền sự đối với bị cáo.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, Cơ quan Công an huyện Đắk S đã ra quyết định xử phạt hành chính 750.000 đồng.
Đối với người bán ma túy cho bị cáo tên H Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk S đang tiến hành xác minh đối tượng tách ra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ được sẽ xử lý theo quy định.
Đối với việc anh Phan Duy H không thừa nhận cầm số tiền 1.450.000 đồng của Trần Lâm D để đưa cho đối tượng tên H. Vì vậy không có căn cứ để xử lý đối với anh H.
hủy.
[7]. Các biện pháp tư pháp:
- Đối với 0,2076 gam Methamphetamine còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu - Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, loại bàn phím bên trong có sim số 0965986940 mà bị cáo sử dụng để trao đổi mua ma túy nên đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, biển kiểm soát 93H1-025.44 mà bị cáo khai mượn của anh Trần Văn B sử dụng để đi mua ma túy. Quá trình điều tra chưa làm rõ chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk S tiếp tục xác minh, khi có kết quả sẽ xử lý theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Lâm D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Lâm D 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 20/12/2020.
* Các biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 0,2076 gam Methamphetamine còn lại sau giám định.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, loại bàn phím bên trong có sim số 0965986940.
(Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng thể hiện ngày 27/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Song và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Song).
* Về án phí: Căn cứ khoản 1, 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Trần Lâm D phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
* Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo những nội dung liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 15/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 15/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về