Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 277/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, cư trú tại: Thôn M, xã V, huyện T, thành phố Hà Nội, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt);

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K, ĐKTT: Thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng. Hiện đang thi hành án tại: Đội 6, phân trại 4, trại giam Ninh Khánh, tỉnh Ninh Bình, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn K kết hôn do tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Tự, huyện Thường Tín, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 4 năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng gia đình chị T tại thôn Minh Nga, xã Văn Tự, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Thời gian vợ chồng chung sống cùng nhau xảy ra nhiều mâu thuẫn do có những bất đồng trong tính cách, quan điểm nên thường xuyên xảy ra va chạm, cãi vã căng thẳng. Năm 2014, anh Nguyễn Văn K vi phạm pháp luật và bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 năm tù về tội Cướp tài sản. Hiện tại, anh K đang thi hành án phạt tù tại Trại giam Ninh Khánh, tỉnh Ninh Bình. Nay, xác định tình cảm vợ chồng với anh Nguyễn Văn K không còn nên chị Nguyễn Thị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn K để giải phóng hai bên khỏi ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Văn K có 01 con chung là: Nguyễn Chí K, sinh ngày 29 tháng 12 năm 2010. Ly hôn, do anh Nguyễn Văn K đang phải thi hành án, không có điều kiện nuôi con nên chị Nguyễn Thị T đề nghị Tòa án giao con chung cho chị nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 04 tháng 11 năm 2020, bị đơn là anh Nguyễn Văn K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị T kết hôn do tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Tự, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội vào ngày 10/4/2010. Thời gian vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn do có sự bất đồng trong tính cách, quan điểm, một phần do anh ham chơi, có hành vi vi phạm pháp luật và bị Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 năm tù về tội Cướp tài sản. Hiện anh Thêm đang thi hành án tại Trại giam Ninh Khánh, tỉnh Ninh Bình. Nay, chị Nguyễn Thị T xin ly hôn, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn với chị T.

Về con chung: Anh và chị Nguyễn Thị T có 01 con chung là Nguyễn Chí K, sinh ngày 29 tháng 12 năm 2010. Ly hôn, do anh đang phải thi hành án phạt tù, không có điều kiện nuôi dưỡng con chung nên anh đề nghị Tòa án giao con cho chị Nguyễn Thị T nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương tại phiên toà phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý cho đến phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 39 Bộ luật Dân sự, các điều 51,56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn K. Giao con chung Nguyễn Chí K, sinh ngày 29 tháng 12 năm 2010 cho chị T nuôi dưỡng. Thời hạn nuôi dưỡng con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi nếu không có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về việc cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung do các đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Căn cứ Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về việc xét xử vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T và bị đơn anh Nguyễn Văn K vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Toà án thu thập đã có đủ cơ sở xác định chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn K kết hôn với nhau do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Văn Tự, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội vào ngày 10 tháng 4 năm 2010. Trong thời gian vợ chồng chung sống cùng nhau có những mâu thuẫn phát sinh do có sự bất đồng trong tính cách, quan điểm. Thời gian anh Nguyễn Văn K đi thi hành án kéo dài nên vợ chồng tình cảm lạnh nhạt, không có khả năng đoàn tụ. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn K đã rạn nứt, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Nên việc chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn K đều có quan điểm thuận tình ly hôn là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn K có 01 con chung là Nguyễn Chí K, sinh ngày 29 tháng 12 năm 2010. Chị T và anh K đều có quan điểm đề nghị Tòa án giao con chung cho chị Nguyễn Thị T nuôi dưỡng. Xét thấy, quan điểm của chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn K là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật và nguyện vọng của con chung nên chấp nhận. Việc cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự.

Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn K.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Chí K, sinh ngày 29 tháng 12 năm 2010 cho chị Nguyễn Thị T nuôi dưỡng. Thời hạn nuôi dưỡng con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi nếu không có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về việc cấp dưỡng nuôi con Tòa án không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Tòa án không xem xét giải quyết, khi nào các đương sự có yêu cầu sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án khác.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào Ngân sách Nhà nước, chị T đã nộp số tiền tạm ứng án phí 300.000đ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương (Biên lai thu tiền số 0012739 ngày 18 tháng 8 năm 2020) nên không phải nộp nữa.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về