Bản án 15/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 354/2019/TLST - HS, ngày 27 tháng 12 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Lâm P (B) - Sinh ngày 18 tháng 12 năm 1998, tại tỉnh Đắk Lắk Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Đường T, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn P và bà: Đỗ Thị Hồng H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án số 172/2018/HSST ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt: 01 năm 06 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo chấp hành án phạt tù tại Trại giam Đắk Trung- Bộ Công an, đến ngày 06/6/2019 chấp hành xong hình phạt tù. Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18 tháng 11 năm 2019 – Có mặt.

- Người bị hại: Ông Võ Nguyên D - sinh năm 2001.

Cư trú tại: Tổ dân phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk – Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Khánh N– sinh năm 1998 Cư trú tại: Đường Y, phường T, thành phố B, Đăk Lăk – Vắng mặt.

- Ông Võ Nguyên S - sinh năm 1995 Cư trú tại: Tổ dân phố B, phường T, thành phố B, Đăk Lăk – Có mặt.

- Bà Phan Thị Mỹ L - sinh năm 1970 Cư trú tại: Tổ dân phố B, phường T, thành phố B, Đăk Lăk – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Lâm P và anh Võ Nguyên D là bạn bè quen biết. Vào khoảng 14 giờ ngày 15/11/2019, P đến tiệm Internet, tại địa chỉ: đường N, phường T, thành phố B, để chơi điện tử. Tại đây P gặp D cũng đang chơi điện tử, nên P đi lại ngồi chung bàn và mượn máy vi tính anh D đang chơi điện tử để nhắn tin cho bạn của P. Lúc này, P thấy trong chiếc mũ bảo hiểm để dưới ghế nơi anh D ngồi có chùm chìa khoá xe mô tô nên P nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô của anh D. P lén lút lấy chùm chìa khoá xe mô tô và đi ra ngoài phía trước tiệm mở khoá chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn: Xám- đen, biển số 47B2- 166.60 của anh D đang dựng tại đây, rồi điều khiển xe tẩu thoát. Sau đó, P mượn điện thoại của một người tên “K’’ (không rõ nhân thân, lai lịch), gọi điện cho anh Nguyễn Khánh N là người P quen biết từ trước hỏi vay tiền thì anh N đồng ý. P điều khiển xe mô tô biên số 47B2- 166.60 chở K đi đến khu vực ngã tư đường T và P, thành phố B gặp N. P hỏi vay anh N số tiền 4.000.000 đồng và để lại chiếc xe mô tô biên số 47B2- 166.60 cho anh N làm tin. Anh N hỏi về nguồn gốc chiếc xe mô tô biển số 47B2- 166.60, thì P nói dối với anh N đây là xe của gia đình P, nên anh N đồng ý cho P vay số tiền 4.000.000 đồng và giữ lại chiếc xe mô tô biển số 47B2- 166.60 (trong cốp xe có 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, số: 054115, ghi tên Võ Nguyên S). Số tiền này P đã mua ma tuý sử dụng và tiêu xài cá nhân hết. Sau khi phát hiện bị mất chiếc xe mô tô biển số 47B2- 166.60, anh D đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, trình báo và nói lại cho gia đình biết. Sau khi nghe lại vụ việc, anh Võ Nguyên S là anh ruột của D nghi ngờ P là người trộm cắp xe mô tô, nên liên lạc với P qua facebook thì P thừa nhận đã trộm cắp chiếc xe mô tô biển số 47B2- 166.60 và đưa số điện thoại của N cho anh S để liên hệ chuộc xe. Sau đó, anh S đưa cho mẹ ruột là Phan Thị Mỹ L số tiền 4.000.000 đồng, nhờ bà L đi gặp N để thoả thuận chuộc xe mô tô. Đến tối ngày 16/11/2019, bà Lệ đã đưa cho N số tiền 4.000.000 đồng và nhận lại chiếc xe mô tô biển số 47B2- 166.60 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe. Qúa trình điều tra, bà Phan Thị Mỹ L đã tự nguyện giao nộp: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn: Xám- đen, biển số 47B2- 166.60 (số khung: 3240HY028938; số máy: E3X9E078639) và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số: 054115 ghi tên Võ Nguyên S, là vật chứng của vụ án cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để phục vụ công tác điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản, số: 293/KLĐG ngày 22 tháng 11 năm 2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận:

- 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn: Xám- đen, biển số 47B2- 166.60 (số khung: 3240HY028938; số máy: E3X9E078639), trị giá: 14.000.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của bị cáo đúng như nội dung trên và không có ý kiến gì.

Tại bản cáo trạng số: 15/KSĐT-HS ngày 26/12/2019 Viện kiểm sát nhân dân thanh phô Buôn Ma Thuột , tỉnh Đăk Lăk đã truy tố bị cáo Nguyễn Lâm P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Lâm P và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Lâm P theo bản cáo trạng số 15/KSĐT-HS ngày 26/12/2019 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Lâm P từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù.

Các biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự ; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự. Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn: Xám- đen, biển số 47B2- 166.60 (số khung: 3240HY028938; số máy: E3X9E078639 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô cho anh Võ Nguyên Sơn là chủ sở hữu nhận quản lý sử dụng. Buộc bị cáo Nguyễn Lâm P phải bồi thường cho anh Võ Nguyên S số tiền 4.000.000đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Lâm P tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đã lén lút lấy trộm 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn: Xám- đen, biển số 47B2- 166.60, trị giá : 14.000.000 đồng của anh Võ Nguyên D là phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[2] Xét thấy, bị cáo nhận thức được rằng tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật đều bị trừng trị thích đáng. Với tuổi đời còn non trẻ, có đầy đủ sức lực để tự lao động nuôi sống bản thân nhưng chỉ vì tham lam tư lợi, nên bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh D nên đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh và buộc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, nhằm phát huy được tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có tình tiết tăng nặng là phạm tội thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Bị cáo có bà ngoại là người có công trong công cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước. Đây là những tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong vụ án có anh Nguyễn Khánh N là người đã nhận giữ chiếc xe mô tô biển số 47B2- 166.60 từ bị cáo Nguyễn Lâm P, nhưng anh N không biết chiếc xe mô tô là tài sản do bị cáo P phạm tội mà có. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không đề cập xử lý là phù hợp.

Ngoài ra, còn có đối tượng tên K là người đã đi cùng bị cáo P đến gặp anh Nguyễn Khánh N và đối tượng nam giới đã bán ma tuý cho bị cáo sử dụng. Do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này, nên Cơ quan điều tra tách ra khỏi nội dung vụ án để tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Lâm P, ngày 22/11/2019 Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Lâm P, về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, bằng hình thức phạt: Cảnh cáo, theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, là đúng quy định.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại cơ quan điều tra anh Võ Nguyên S đã yêu cầu Nguyễn Lâm P phải bồi thường số tiền: 4.000.000 đồng, là tiền anh S đã đưa cho bà Phan Thị Mỹ L để bà L đưa cho Nguyễn Khánh N chuộc chiếc xe mô tô biển số 47B2- 166.60. Xét yêu cầu bồi thường của anh S là chính đáng nên buộc bị cáo phải bồi thường cho anh S số tiền 4.000.000đồng [4] Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã trao trả chiếc xe mô tô biển số 47B2- 166.60 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô cho anh Võ Nguyên S là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng. Anh S không có yêu cầu gì nên không đặt ra giải quyết.

[5] Xét quá trình điều tra, truy tố. Điều tra viên đã thi hành các quyết định tố tụng, tiến hành truy tìm, thu thập vật chứng, khám nghiệm hiện trường cũng như lấy lời khai của bị cáo và các đương sự khác liên quan trong vụ án là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nên bị cáo không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

[6]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lâm P (B) phạm tội: “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Lâm P (B) 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 18 tháng 11 năm 2019 .

Về Trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Lâm P phải bồi thường cho anh Võ Nguyên S số tiền 4.000.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự 

Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Lâm P phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại nơi cư trú của người bị hại.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về