Bản án 15/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại Nhà văn hóa khóm 7, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2020/TLST- HS ngày 10/6/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐXXST- QĐ ngày 07/8/2020 và thông báo hoãn phiên tòa số 27/TB-TA ngày 24/8/2020, đối với bị cáo:

Võ Thanh Đ, sinh ngày 09/3/1993 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Xóm H, thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Không ổn định; trình độ văn hóa: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Võ Thanh L, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1963 (đã chết); tiền án, tiền sự: Không có.

Nhân thân: Ngày 12/6/2013, có hành vi “Gây rối trật tự công cộng” và “Cố ý gây thương tích”, bị Công an huyện H xử phạt hành chính 1.000.000đồng theo Quyết định xử phạt vi phạt hành chính số 143/QĐ-XPHC ngày 16/8/2013. Bị cáo đã chấp hành xong quyết định xử phạt này.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17 tháng 01 năm 2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Hồ Thị T, sinh năm 1993; trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

Người làm chứng:

- Ông Võ Thanh L, sinh năm 1962, trú tại: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Anh Nguyễn Vũ L, sinh năm 1984; trú tại: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Anh Hồ Ngọc H, sinh năm 1997; trú tại: Khóm 7, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1995; trú tại: Khóm 7, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Anh Nguyễn Trọng H, sinh năm 1993; trú tại: Thôn 4, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Anh Phạm Văn Ngh, sinh năm 1995; trú tại: Thôn 4, thị trấn D, huyện H, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 13/01/2020, Võ Thanh Đ điều khiển xe mô tô của chị Hồ Thị T nhãn hiệu ATTILA, biển kiểm soát 79D1-022.30 đến tại một quán internet ở thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị nhờ một người (không rõ tên tuổi, địa chỉ) mua 20 viên ma túy tổng hợp với giá 1.400.000 đồng rồi đem về nhà cất giấu để sử dụng và nêu ai mua thì bán lại. Chiều cùng ngày, Đài đến nhà của Nguyễn Vũ L chơi (L và Đ có mối quan hệ xã hội từ trước), tại đây, cả hai cùng sử dụng 01 viên ma túy. Khoảng 19 giờ ngày 14/01/2020, Nguyễn Vũ L gọi điện thoại cho Võ Thanh Đ hỏi mua 02 viên ma túy với số tiền 200.000đồng. Đ hẹn L đến trước quán cà phê “Sân vườn” ở thôn K, xã H, khi gặp nhau, Đ đưa cho L 03 viên ma túy còn L đưa cho Đ 200.000đồng. Trong các ngày 15, 16/01/2020, Võ Thanh Đ thừa nhận đã sử dụng thêm 02 viên ma túy tại nhà của mình.

Ngày 16/01/2020, các đối tượng Nguyễn Thanh T, Hồ Ngọc H, Nguyễn Trọng H và Phạm Văn Ngh mua ma túy của Võ Thanh Đ 03 lần, tổng cộng 12 viên để sử dụng, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, Hồ Ngọc H góp 200.000đồng, Nguyễn Thanh T góp 100.000đồng, H dùng điện thoại của T để gọi cho Đ hỏi mua ma túy, H chạy xe mô tô về phía hướng xã Hải D thì gặp Đ, khi gặp H ở gần nhà mình, Đ đưa cho H một thẻ cào điện thoại được gấp lại và nói bên trong chứa 04 viên ma túy nhưng H không kiểm tra mà đưa cho Đ 300.000đồng. Lúc này, T đứng một vị trí khác không trực tiếp mua bán, đồng thời không thấy H và Đ mua bán ma túy. Khi về tại Nhà nghỉ Lifecom ở thị trấn D, H kiểm tra số ma túy mà Đ giao thì chỉ có 03 viên nên gọi điện thoại lại cho Đ thì được Đ trả lời là đã giao cho H 04 viên, H khai nhận quá trình vận chuyển không biết có làm rơi hay không. Quá trình điều tra đã tiến hành đối chất, Võ Thanh Đ khai nhận đã giao đủ 04 viên.

Lần thứ hai: Khoảng 20 giờ cùng ngày, T gọi điện cho Đ hỏi mua 02 viên ma túy với giá 200.000đồng, vì không có tiền mặt nên T đề nghị chuyển khoản cho Đ. Đ đồng ý và gửi tin nhắn cho T để cung cấp số tài khoản ngân hàng Vietcombank 0441000254092 của chị Hồ Thị T cho T chuyển khoản. Sau khi T chuyển khoản vào tài khoản nói trên với số tiền 200.000đồng, H cùng Tấn về lấy 03 viên ma túy do Đ đã để sẵn ở một bên mép cầu cách ngã tư chợ K, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị, sau đó đem về nhà nghỉ Lifecom để cùng nhau sử dụng.

Lần thứ 3: Khoảng 22 giờ cùng ngày, Nguyễn Thanh T gọi điện thoại cho Võ Thanh Đ hỏi mua ma túy với số tiền 400.000đồng, đây là số tiền mà T và Phạm Văn Ngh góp mỗi người 200.000đồng, nhưng Ngh không trực tiếp đi mua ma túy cùng với T. Sau khi chuyển khoản vào số tài khoản 0041000254092 của chị T số tiền 200.000đồng, T cùng Nguyễn Trọng H đi về hướng xã H, huyện H, tỉnh Quảng Trị trên tỉnh lộ 582B thì gặp Đ đã đợi sẵn, lúc này, T đưa cho Đ 200.000đồng, Đ đưa cho H một gói giấy vệ sinh bên trong có chứa 05 viên ma túy. Sau đó, T cùng H đưa ma túy về nhà nghỉ Lifecom cùng nhau sử dụng hết 01 viên, còn lại 04 viên chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện H kiểm tra phát hiện, bắt quả tang đối với Nguyễn Thanh T; Hồ Ngọc H; Nguyễn Trọng H và Phạm Văn Ngh về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Quá trình đấu tranh các đối tượng thừa nhận mua ma túy của Võ Thanh Đ về để sử dụng.

Lúc 04 giờ ngày 17/01/2020, cơ quan CSĐT Công an huyện H tiến hành khám xét khẩn chỗ ở của Võ Thanh Đ, phát hiện và thu giữ 02 viên ma túy (02 viên ma túy này Đ khai nhận chưa kịp bán thì bị bắt giữ).

Tại Bản kết luận giám định số 124/KLGĐ ngày 20/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: Toàn bộ số lượng 02 viên nén thu giữ đối với Võ Thanh Đ có tổng khối lượng 0.2002gam là ma túy loại Methamphetamine nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản kết luận giám định số 123/KLGĐ ngày 20/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 04 viên nén do tổ công tác thuộc Công an huyện H tiến hành kiểm tra tại phòng số 04, nhà nghỉ Lifecom ở thôn 3, xã H, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị thu giữ có khối lượng 0,4043gam là ma túy loại Methamphetamine nằm trong danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 11/CT-VKS-HL ngày 10/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Lăng truy tố bị cáo Võ Thanh Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận đã thực hiện hình vi như nội dung bản cáo trạng đã nêu ở trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 08 năm đến 09 năm tù.

Về vật chứng:

- 01 (một) túi niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, mã số PS3A 102864, trên túi niêm phong có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, bên trong chứa vật chứng là ma túy hoàn lại sau giám định; 01 (một) hộp giấy bên ngoài được dán kín và niêm phong, trên hộp giấy có chữ ký của những người tham gia niêm phong và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, bên trong chứa vật chứng là vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse; 01 vỏ chai nhựa trong suốt, trên vỏ chai có chữ Sting, chai nhựa cao 21 cm, đường kính đáy 05cm, đường kính miệng 2,5cm, tại vị trí cách đáy chai 07cm, từ dưới lên trên có 01 lỗ thủng; 01 chai nhựa trong suốt, cao 18cm, đường kính 0,6cm, đường kính miệng chai 2,5cm, tại vị trí ở giữa thân chai, cách đáy chai 9,5cm có 01 lỗ thủng có gắn 01 ống tre là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.

- Số tiền 1.100.000 đồng do ông Võ Thanh L là bố của bị cáo đã nộp lại, là tiền do bị cáo phạm tội mà có; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone5, màu đen xám; 01 (một) tờ tiền do Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành, mệnh giá 2.000đồng là các công cụ phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu trắng bạc vì không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo

- Xe mô tô hiệu SYM Attila màu đỏ, số loại VTC biển kiểm soát 79D1-022.30 chị Hồ Thị T không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho chị T.

Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên; bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Từ ngày 14/01 đến ngày 16/01/2020, Võ Thanh Đ đã nhiều lần bán ma túy cho các đối tượng Nguyễn Vũ L, Nguyễn Thanh T, Hồ Ngọc H, Nguyễn Trọng H và Phạm Văn Ngh. Số ma túy thu giữ tại thời điểm bắt phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thanh T, Hồ Ngọc H, Nguyễn Trọng H và Phạm Văn Ngh có khối lượng 0,4043gam là ma túy loại Methamphetamine; 02 viên ma túy thu giữ của Võ Thanh Đ trong lúc khám xét chỗ ở có khối lượng 0.2002gam là ma túy loại Methamphetamine. Trong lần thứ ba bán ma túy của ngày 16/01/2020, Võ Thanh Đ lấy tiền từ Nguyễn Thanh T và giao ma túy cho Nguyễn Trọng H. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3]. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an toàn xã hội. Ma túy đã và đang gây tác hại xấu cho sức khỏe của người sử dụng; làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, làm khánh kiệt về kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhàm cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo đã tác động đến gia đình để nộp lại số tiền 1.100.000đồng bị cáo thu được từ việc bán ma túy, bố của bị cáo đã từng tham gia quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào và được tặng thưởng nhiều bằng khen, giấy khen. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Bị cáo phạm tội ở 02 tình tiết định khung tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó, bị cáo có nhân thân xấu, năm 2013 đã bị Công an huyện H xử phạt hành chính 1.000.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng và cố ý gây thương tích”. Do đó, cần xử phạt bị cáo ở trên mức khởi điểm của khung hình phạt mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6]. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện H đã ra quyết định xử phạt hành chính.

[7]. Đối với hành vi tàng trữ ma túy của Nguyễn Thanh T, Hồ Ngọc H, Nguyễn Trọng H, Phạm Văn Ngh cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện H đã khởi tố trong một vụ án khác.

[8]. Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) túi niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, mã số PS3A 102864, trên túi niêm phong có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, bên trong chứa vật chứng là ma túy hoàn lại sau giám định; 01 (một) hộp giấy bên ngoài được dán kín và niêm phong, trên hộp giấy có chữ ký của những người tham gia niêm phong và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, bên trong chứa vật chứng là vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse; 01 vỏ chai nhựa trong suốt, trên vỏ chai có chữ Sting, chai nhựa cao 21 cm, đường kính đáy 05cm, đường kính miệng 2,5cm, tại vị trí cách đáy chai 07cm, từ dưới lên trên có 01 lỗ thủng; 01 chai nhựa trong suốt, cao 18cm, đường kính 0,6cm, đường kính miệng chai 2,5cm, tại vị trí ở giữa thân chai, cách đáy chai 9,5cm có 01 lỗ thủng có gắn 01 ống tre là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.

- Số tiền 1.100.000 đồng do ông Võ Thanh L là bố của bị cáo đã nộp lại, là tiền do bị cáo phạm tội mà có; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone5, màu đen xám; 01 (một) tờ tiền do Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành, mệnh giá 2.000đồng là các công cụ phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu trắng bạc vì không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo

- Xe mô tô hiệu SYM Attila màu đỏ, số loại VTC biển kiểm soát 79D1-022.30 chị Hồ Thị T không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho chị T.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Cần tiếp tục ban hành quyết định tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Võ Thanh Đ, phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Võ Thanh Đ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 17/01/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) túi niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, mã số PS3A 102864, trên túy niêm phong có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, bên trong túi niêm phong chứa vật chứng là ma túy hoàn lại sau giám định; 01 (một) hộp giấy bên ngoài được dán kín, đã được niêm phong, trên hộp giấy có chữ ký của những người tham gia niêm phong và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, bên trong chứa vật chứng là vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse; 01 vỏ chai nhựa trong suốt, trên vỏ chai có chữ Sting, chai nhựa cao 21 cm, đường kính đáy 05cm, đường kính miệng 2,5cm, tại vị trí cách đáy chai 07cm, từ dưới lên trên có 01 lỗ thủng; 01 chai nhựa trong suốt, cao 18cm, đường kính 0,6cm, đường kính miệng chai 2,5cm, tại vị trí ở giữa thân chai, cách đáy chai 9,5cm có 01 lỗ thủng có gắn 01 ống tre.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: số tiền 1.100.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu đen xám; 01 (một) tờ tiền do Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành, mệnh giá 2.000đồng.

- Trả lại cho bị cáo Võ Thanh Đ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu trắng bạc.

- Trả lại cho chị Hồ Thị T 01 (một) xe mô tô hiệu SYM Attila, số loại VTC, màu đỏ, biển kiểm soát 79D1-022.30, số khung HD9D007074, số máy TBBD007074.

(Các vật chứng nêu trên hiện đang có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 6 năm 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện H và Chi cục thi hành án dân sự huyện H. Riêng số tiền 1.100.000 đồng và số tiền 2.000 đồng đang có tại tài khoản tạm giữ số 3949.0.9017075 của Công an huyện H mở tại Kho bạc nhà nước huyện H).

4. Về án phí: Áp dụng điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Võ Thanh Đ phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

331
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Lăng - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về