Bản án 15/2020/HS-PT ngày 19/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 15/2020/HS-PT NGÀY 19/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo Trần Văn L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2020/HS-ST ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.

Bị cáo có kháng cáo:

Trn Văn L, sinh ngày 08/10/1978 tại tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Thôn A, xã K, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân H, sinh năm 1933 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1930; anh, chị, em ruột: có 06 người, bị cáo là con thứ sáu; có vợ: Bùi Thị Th, sinh năm 1979 và 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2003;

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Bản án số 67/2006/HSST ngày 06/12/2006 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 18 tháng tù về tội “Mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép vật liệu nổ” (bị cáo đã chấp hành xong ngày 29/4/2008).

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 211/QĐ-XPHC ngày 11/10/2016 của Công an thành phố T xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi Xâm hại đến sức khỏe của người khác (bị cáo đã chấp hành xong ngày 12/10/2016).

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị L2, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn A, xã K, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

1. Anh Trần Văn M, sinh năm 1969. Địa chỉ: Thôn A, xã K, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

2. Anh Hoàng Thế H, sinh năm 1960. Địa chỉ: Thôn S, xã V, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Anh Trần Văn M và chị Nguyễn Thị L2 (vợ anh M) là anh trai ruột và là chị dâu của Trần Văn L. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/9/2019 L đi bộ t nhà đến khu vực bến Thài Lài bờ Sông Lô, thuộc thôn , xã K để làm việc tại tàu cát thì gặp anh M, chị L2 đang đóng cọc tre rào vườn tại khu vực bến Thài Lài bờ Sông Lô; anh M bảo L tháo dây cáp neo buộc tàu ra khỏi cây sung ở vườn của anh M để cây không bị chết. Do L và anh M trước đó có mâu thuẫn về tranh chấp đất đai, nên hai bên lời qua tiếng lại, sau đó L gọi và bảo anh Hoàng Thế H và một người đàn ông tên V (không xác định được tên, tuổi, địa chỉ) là những người làm thuê trên tàu cát, lên cùng với L cởi dây cáp neo đang buộc ở gốc cây sung để chuyển sang buộc gốc cây Sếu ở gần đó, nhưng do L và anh M đều nhận cây Sếu là của mình nên đã xảy ra tranh cãi nhau. Lúc này anh M tay đang cầm 01 chiếc búa, 01 con dao dùng để đóng cọc tre đến ngăn cản không cho L buộc dây cáp neo vào gốc cây Sếu. Khi anh M đi đến còn cách L khoảng 02 mét, thì L dùng tay nhổ 01 đoạn gậy bằng tre (kích thước dài 180cm, một đầu gậy đường kính 2,5cm, một đầu gậy đường kính 04cm) ở gần đó, tay phải L cầm gậy vụt 01 nhát theo chiều hướng t trên xuống dưới, t phải sang trái vào đầu anh M, anh M giơ tay phải lên đỡ thì bị gậy vụt vào bàn tay phải; anh M lao về phía L thì bị L vụt 01 nhát vào chân trái, anh M ngã xuống đất, L vụt tiếp 01 nhát nữa vào khủy tay trái anh M. Thấy anh M bị L đánh kêu đau, chị L2 chạy về nhà để gọi người đến cứu giúp. Do đang bực tức với anh M, nên khi chị L2 chạy qua cách ch Luyện khoảng 1,5 mét thì Luyện dùng tay phải cầm gậy tre vung lên vụt 01 nhát theo hướng t trên xuống dưới, t phải sang trái vào đầu chị L2, chị L2 giơ tay lên ôm đầu thì bị gậy vụt vào cẳng tay trái. Sau đó L vứt gậy tre ở tại hiện trường rồi đi về nhà; còn anh M và chị L2 được người nhà đưa đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang cấp cứu và điều trị thương tích.

Tại Bản Kết luận giám định pháp y thương tích số 240/2019/TgT ngày 30/10/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang, kết luận đối với Trần Văn M: Gẫy một xương đốt bàn, bàn tay phải 06%. Gẫy 1/3 trên xương mác cẳng chân trái 04%. Cơ chế vật gây thương tích là do vật tầy tác động trực tiếp gây nên. T lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 10% (Mười phần trăm).

Tại Bản Kết luận giám định pháp y thương tích số 241/2019/TgT ngày 31/10/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang, kết luận đối với Nguyễn Thị L2: Gãy 02 xương cẳng tay trái đã phẫu thuật kết hợp xương 15%. Các s o cẳng tay trái kích thước như mô tả 08%. Cơ chế vật gây thương tích gãy xương là do vật tầy tác động trực tiếp gây nên. S o là do phẫu thuật. T lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 22% (Hai mươi hai phần trăm) theo phương pháp cộng lùi của Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ y tế.

Đối với thương tích của anh Trần Văn M do Trần Văn L gây nên thì ngày 13/11/2019 anh M đã có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với Luyện và không yêu cầu L bồi thường dân sự.

Với nội dung vụ án nêu trên; tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2020/HS- ST ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang đã quyết định:

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn L 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính t ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm đã tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 16/3/2020, bị cáo Văn L kháng cáo xin được hưởng án treo; bị hại chị Nguyễn Thị L2 có đơn đề nghị xin giảm nh hình phạt cho bị cáo Trần Văn L được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Văn L giữ nguyên nội dung kháng cáo, xin được hưởng án treo.

Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; đơn kháng cáo của bị cáo hợp lệ, trong hạn luật định; thủ tục giải quyết vụ án đúng trình tự tố tụng.

- Về nội dung: Hành vi phạm tội của bị cáo bị cấp sơ thẩm quy kết phạm tội là có căn cứ, bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo, không kêu oan, nên việc quy kết bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm, bị cáo L xuất trình thêm Biên lai nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ; bị hại L2 lại tiếp tục xin cho bị cáo được hưởng án treo và xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo như nội dung đơn đề nghị sau khi xét xử sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn L 01 (một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, cho bị cáo được hưởng án treo, thời hạn thử thách là 02 năm; giao bị cáo cho U ban nhân dân nơi cư trú giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách án treo. Ghi nhận bị cáo L đã nộp khoản tiền án phí theo quy định.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo L tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/9/2019, Trần Văn L đã thực hiện hành vi dùng 01 đoạn gậy bằng tre (kích thước dài 180cm, một đầu gậy đường kính 2,5cm, một đầu gậy đường kính 04cm) vụt 01 nhát trúng vào đầu và chân anh M , đồng thời vụt 01 nhát trúng vào đầu và cẳng tay trái chị L2, gây hậu quả anh M t lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 10%; chị L2 t lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 22% (Hai mươi hai phần trăm).

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đơn kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, dùng hung khí nguy hiểm mang tính chất côn đồ, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác với l i cố ý, gây bất bình trong dư luận xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo L 01 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

[3] Tuy nhiên, cần xem xét, áp dụng các tình tiết giảm nh cho bị cáo cho bị cáo khi lượng hình, đó là:

Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội đã bồi thường cho bị hại số tiền 50.000.000 đồng; tại cấp phúc thẩm, bị cáo L xuất trình thêm Biên lai nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ; bị hại L2 lại tiếp tục xin cho bị cáo được hưởng án treo và xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo như nội dung đơn đề nghị sau khi xét xử sơ thẩm. Đây là tình tiết giảm nh mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét cho bị cáo.

Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nh tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại là anh em ruột thịt trong gia đình xin cho bị cáo được hưởng án treo và xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng.

Do vậy, không cần thiết cách ly bị cáo ngoài xã hội mà chấp nhận đơn kháng cáo cho bị cáo được hưởng án treo như ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ điều kiện để giáo dục bị cáo cũng như phòng ng a tội phạm chung tại địa phương.

[4] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

[5] Bị cáo Trần Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể t ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 11/2020/HS-ST ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang về phần hình phạt như sau:

Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Văn L 01 (một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm, hạn thử thách tính t ngày tuyên án hình sự phúc thẩm.

Giao bị cáo Trần Văn L cho Ủy ban nhân dân xã K, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, khoản 2 Điều 93 Luật Thi hành án hình sự.

(Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt tù của bản án mới theo quy định).

Ghi nhận bị cáo Trần Văn L đã nộp khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tiền số 0001281 ngày 04/3/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.

Về án phí: Bị cáo Trần Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể t ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể t ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-PT ngày 19/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:15/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về