Bản án 15/2019/HSST ngày 18/04/2019 về trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THẠNH, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 15/2019/HSST NGÀY 18/04/2019 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2019/HSST ngày 12 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/HSST-QĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần Quốc K– sinh năm 1990; nơi cư trú: ấp V, xã T, huyện G, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H – sinh năm 1960 và bà Huỳnh Thị K– sinh năm 1960; Bị cáo có 03 anh ,chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1993; tiền án: có 02 tiền án, ngày 22/01/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 05/2015/HSST ngày 22/01/2015, chấp hành xong hình phạt ngày 29/4/2016 và ngày 30/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2016/HSST ngày 30/9/2016, chấp hành xong hình phạt ngày 12/4/2018; tiền sự: có 01 tiền sự, ngày 26/10/2018 bị Ủy ban nhân dân xã T ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 03 tháng đến ngày 26/01/2019, chưa chấp hành xong thì bị lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bị cáo bị tạm giam, tạm giữ từ ngày 31/01/2019.

- Người bị hại:

1. Ông Lê Văn H – sinh năm 1965;

2. Anh Phan Văn C – sinh năm 1985;

3. Ông Nguyễn Văn N – sinh năm 1978

Cùng nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp V, xã T, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Đoàn Thị H, sinh năm 1981; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp V, xã T, huyện G, thành phố Cần Thơ.

- Người làm chứng:

1. Anh Lê Văn M- 1995

2. Ông Nguyễn Văn M1 – 1956

3. Ông Trần Văn T– 1966

4. Bà Nguyễn Thị Kim C – 1960

5. Ông Trần Văn H – 1960

Cùng nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp V, xã T, huyện G, thành phố Cần Thơ.

(Bị cáo có mặt đương sự còn lại vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ ngày 22/01/2019 Trần Quốc K đi bộ một mình đến kênh 17 thuộc ấp V, xã T, huyện G để tìm tài sản của người khác lấy trộm. Khi đến khu vực nhà ông Lê Văn H, K thấy 01 bình ắc quy loại 150 ampe để ở phía bên hông nhà, bên trên có miếng vải đậy lên, K đi vào lén lút lấy trộm bình ắc quy kéo qua ruộng phía sau nhà ông H, khi đến khu vực chuồng vịt của ông Nguyễn Văn N (có tên gọi khác là H) thấy có 02 con vịt lông trắng và 02 con vịt lông đen K lấy trộm 04 con vịt, sau đó thấy 01 chiếc xuồng gỗ nhỏ cụt lái của anh Phan Văn C đang đậu dưới kênh Sườn Ngang cách đó khoảng 10 mét, gần bụi chuối không có ai trông coi, K đem bình ắc quy và vịt xuống xuồng bơi đi tìm nơi tiêu thụ. Sau đó, K đem vịt gặp bà chín Sò (không rõ họ tên, địa chỉ) ở khu vực kênh 13 nhờ bán dùm, tiếp tục đem bình ắc quy đến nhà bà Đoàn Thị H, sinh năm 1981 ở kênh 16 thuộc ấp V bán với giá 500.000 đồng, sau khi trừ đi 400.000 đồng K đã mượn H trước đó số tiền còn lại K đem đi mua ma túy sử dụng. Đối với chiếc xuồng thì K bơi đến đầu kênh 3 đậu ở đó rồi đi uống cà phê. Sau khi tiếp nhận tin báo các bị hại, Cơ quan điều tra mời K làm việc.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra K đã thừa nhận toàn bộ hành vi lấy trộm tài sản vào ngày 20/01/2019 phù hợp với lời khai của các bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại biên bản định giá số: 02/BB.ĐGTS ngày 28/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Vĩnh Thạnh kết luận tổng số tài sản Trần Quốc K trộm cắp có giá trị 2.700.500 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 12 tháng 3 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát huyện Vĩnh Thạnh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội: “Trộm cắp tài sản”;

Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm b khoản 2 Điều 53, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng đến 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù;

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Công nhận cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh đã trả lại cho bị hại Nguyễn Văn N 04 con vịt, trả lại cho bị hại Phan Văn C 01 chiếc xuồng gỗ đã qua sử dụng, kích thước dài 4,6m, rộng 0,9m, cao 0,3m; đề nghị tịch thu 01 danh thiếp có ghi thông tin bảo hành bình ắc quy của cửa hàng điện tổng hợp H, ngụ phường T, quận N, thành phố Cần Thơ lưu hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Công nhận bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại Lê Văn H số tiền 1.500.000 đồng.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra, việc vắng mặt những người tham gia tố tụng này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án; căn cứ vào Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng.

[2] Về tội danh và khung hình phạt:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Quốc K thành khẩn khai nhận: Ngày 22/01/2109 lợi dụng lúc đêm khuya mọi người đã ngủ say, bị cáo đi đến khu vực nhà ông Lê Văn H, bị cáo thấy 01 bình ắc quy loại 150 ampe để ở phía bên hông nhà, bên trên có miếng vải đậy lên, bị cáo đi vào lén lút lấy trộm bình ắc quy kéo qua ruộng phía sau nhà ông H, khi đến khu vực chuồng vịt của ông Nguyễn Văn N (có tên gọi khác là H) thấy có 02 con vịt lông trắng và 02 con vịt lông đen bị cáo lấy trộm 04 con vịt, sau đó thấy 01 chiếc xuồng gỗ nhỏ cụt lái của anh Phan Văn C đang đậu dưới kênh Sườn Ngang cách đó khoảng 10 mét, gần bụi chuối không có ai trông coi, bị cáo đem bình ắc quy và vịt xuống xuồng bơi đi tìm nơi tiêu thụ.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản án số: 36/2016/HSST của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm, xử phạt bị cáo 02 năm tù giam về hành vi trộm cắp tài sản. Chấp hành xong ngày 12/4/2018, bị cáo đã nộp án phí hình sự đúng theo qui định. Tuy nhiên, tính đến lần thực hiện hành vi phạm tội này bị cáo chưa được xóa án tích theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017), điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

1..........

2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a)............

b) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm..........”

Từ những phân tích nêu trên có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Điều 173, điểm g khoản 2 Bộ luật Hình sự quy định:

“ ........

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

a)..........

g) Tái phạm nguy hiểm............”

Như vậy, Cáo trạng số 17/CT-VKS-TP ngày 12 tháng 3 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Thạnh, truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là đúng người, đúng tội, không oan sai cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, hành vi của các bị cáo còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã t hực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo có thái độ chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về căn cứ quyết định hình phạt: Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị không lớn,một trong các bị hại cũng đã nhận lại tài sản, nên Hội đồng xét xử cũng sẽ cân nhắc để tuyên bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Các biện pháp tư pháp: Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Văn H yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng), quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại, yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản của bị hại là phù hợp, nên chấp nhận yêu cầu, buộc bị cáo bồi thường.

[7] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Trước và sau thời điểm phạm điểm phạm tội bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên miễm áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra đã xác định được 01 chiếc xuồng bằng gỗ đã qua sử dụng, kích thước dài 4,6m, rộng 0,9m, cao 0,3m là tài sản hợp pháp của anh Phan Văn C, 04 con vịt (02 con vịt lông trắng và 02 con vịt lông đen) là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn N; Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh đã trao trả tài sản cho các bị hại là phù hợp với điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 danh thiếp có ghi thông tin bảo hành bình ắc quy của cửa hàng điện tổng hợp H, ngụ phường T, quận N, thành phố Cần Thơ là tài liệu, chứng cứ nên không xử lý và được lưu trữ tại hồ sơ vụ án.

[9] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cần buộc bị cáo nộp 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm.

[10] Các vấn đề khác: Trong quá trình điều tra bị cáo khai nhận đã bán bình ắc quy cho Đoàn Thị H. Tuy nhiên, qua làm việc và đối chất H không thừa nhận có mua tài sản của K, do không thu hồi được tang vật là bình ắc quy nên chưa đủ cơ sở để xử lý hình sự đối với bà H về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Đối với người phụ nữ tên là Chín Sò mà bị cáo khai nhờ bán 04 con vịt dùm, qua xác minh người này có tên là Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1966, ngụ ấp V, do hiện tại bà L không có mặt tại địa phương, chưa tiếp xúc làm việc được. Đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, khi đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào:

- Điều 38; Điều 47; điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b khoản 2 Điều 70, điểm b khoản 2 Điều 53, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015;

- Điều 106; Điều 136; Điều 292; Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Điều 584, Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015;

- Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Quốc K phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc K 03 (Ba) năm 06 (tháng) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 31/01/2019.

2. Về vật chứng:

Công nhận cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Thạnh trả lại cho bị hại Nguyễn Văn N 04 con vịt (02 con vịt lông trắng, 02 con vịt lông đen), trả lại cho bị hại Phan Văn C 01 chiếc xuồng bằng gỗ đã qua sử dụng dài 4,6m, rộng 0,9m, cao 0,3m.

Tịch thu lưu hồ sơ vụ án 01 danh thiếp có ghi thông tin bảo hành bình ắc quy của cửa hàng điện tổng hợp H, ngụ phường T, quận N, thành phố Cần Thơ. (Danh thiếp được chuyển kèm theo hồ sơ vụ án)

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho bị hại Lê Văn H số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng)

4. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Quốc K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ tiếp theo của ngày tuyên án; người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HSST ngày 18/04/2019 về trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thạnh - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về