Bản án 15/2019/HSPT ngày 30/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 15/2019/HSPT NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30/01/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 239/2018/TLPT-HS ngày 05/12/2018 đối với bị cáo Nguyễn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2018/HSST ngày 02/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn H, sinh năm 1988, nơi sinh: tại xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nơi cư trú: thôn TV, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Sỹ P và bà Chu Thị L (đã chết); chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: tại Bản án hình sự sơ thẩm số 207/2016/HSST ngày 19/12/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 89/QĐ-XPVPH ngày 27/6/2016 của Công an thành phố Bắc Giang xử phạt Nguyễn H 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1657/QĐ-XPVPH ngày 08/7/2016 của Công an phường Mỹ Độ, thành phố Bắc Giang xử phạt Nguyễn H 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Bản án hình sự sơ thẩm số 118/2013/HSST ngày 20/12/2013 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn H 12 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/8/2018 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Phạm Sỹ C kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo, bị hại không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 07/8/2018, bị cáo Nguyễn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Agasi, kiểu xe Wave, màu sơn đỏ, BKS 98B2-905.02 đi đến khu vực đầu cầu sắt thuộc phường T, thành phố B với mục đích tìm nhà nào sơ hở sẽ trộm cắp tài sản. Khi đến đầu cầu, H đi vào một nhà bỏ hoang gần đó thì gặp người quen là bị cáo Phạm Sỹ C đang ngủ ở trong nhà. H rủ C đi trộm cắp tài sản thì C đồng ý, sau đó H điều khiển xe mô tô BKS 98B2-905.02 chở C đi đến khu vực nhà chị Chu Thị H ở phố T, xã T thì nhìn thấy ở nhà chị H có 01 chuồng gà ở phía trên máng nước không có ai trông coi. H dựng xe ở đường rồi bảo C đứng chờ, còn H cầm đèn pin đi vào soi thì thấy trong chuồng gà có nhốt gà, vịt nên đi ra nói với C là "có gà". Sau đó, H nhặt 01 bao tải dứa màu trắng-xanh ở gần đó và cùng C đi đến vị trí chuồng gà thì thấy chuồng gà làm bằng sắt, cửa chuồng gà được khóa bằng dây xích sắt có ổ khóa, tầng dưới của chuồng gà có 05 con vịt màu trắng, tầng 2 có 02 con gà lai đông tảo. H đi ra vị trí dựng xe mô tô mở cốp xe lấy 01 chiếc kìm có tay cầm bọc nhựa màu đỏ đen, có chiều dài khoảng 20cm mang theo từ trước với mục đích mang vào để phá khóa cửa chuồng gà. Sau khi H đi ra lấy kìm thì C dùng tay kéo xích khóa cửa chuồng gà ra tạo khe hở rồi dùng tay đưa qua khe hở bắt được 02 con gà cho vào bao tải dứa, lúc này H đi đến thì C đưa cho H cầm bao tải dứa bên trong đựng 02 con gà rồi tiếp tục cho tay qua khe cửa để bắt vịt. H thấy vịt kêu to, sợ bị phát hiện nên cầm bao tải đựng gà đi ra vị trí để xe mô tô đứng đợi. C dùng tay bắt được 04 con vịt thì đi ra chỗ H cho vịt vào trong bao tải dứa rồi cùng H chở số gà, vịt trộm cắp được mang đi bán. Khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày, H và C đi đến địa phận thôn C, xã D, thành phố B thì bị Tổ công tác Công an xã D đang tiến hành tuần tra, kiểm soát phát hiện thu giữ gồm:

- 02 (hai) con gà lao Đông Tảo có tổng khối lượng 4,3kg; 04 con vịt có tổng khối lượng 5,9kg; 01 bao tải dứa màu trắng-xanh.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu AGASI, màu sơn đỏ, BKS 98B2-905.02; 01 đăng ký xe mô tô số 109810 của xe mô tô BKS 98B2-905.02; 01 Giấy bán xe; 01 chiếc kìm bằng kim loại, tay cầm bọc nhựa màu đỏ-đen.

Cùng ngày, Công an xã D, thành phố B đã chuyển toàn bộ tang vật và người đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng để xử lý theo thẩm quyền.

Ngày 07/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với H và C, thu giữ của H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu hồng.

Ngày 07/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng có yêu cầu định giá tài sản đối với 02 con gà lai Đông Tảo và 04 con vịt mà H và C đã trộm cắp. Tại bản kết luận định giá tài sản số 48/KL-ĐGTS ngày 08/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 02 con gà lai Đông Tảo và 04 con vịt có tổng giá trị 783.000 đồng.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu AGASI, màu sơn đỏ, BKS 98B2-905.02 H dùng làm phương tiện đi trộm cắp là của H mua lại ở cửa hàng xe máy của anh Trần Nam P rồi sử dụng đi trộm cắp tài sản; 01 chiếc đèn pin và 01 chiếc kìm dùng để đi trộm cắp tài sản nhưng trên đường đi đã làm rơi mất chiếc đèn pin; 01 chiếc điện thoại di động không sử dụng vào việc trộm cắp tài sản.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2018/HSST ngày 02/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn H, Phạm Sỹ C phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn H 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 07/8/2018.

Ngoài ra bản án còn tuyên phạt Phạm Sỹ C 08 tháng tù, xử lý vật chứng, án phí, tuyên quyền và nghĩa vụ khác.

Ngày 16/11/2018, bị cáo Nguyễn H kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Ngày 08/11/2018, bị cáo Phạm Sỹ C kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt tù. Ngày 17/01/2019, bị cáo Phạm Sỹ C đã có văn bản xin rút toàn bộ kháng cáo, Tòa án đã ra thông báo về việc rút kháng cáo đối với bị cáo C.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trong nội dung của Bản án sơ thẩm là đúng, không thắc mắc về tội danh. Bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt tù với lý do án sơ thẩm xử phạt bị cáo là nặng, phải chăm sóc bà nội đã hết tuổi lao động, bố đẻ có thành tích trong công tác được tặng bằng khen, giấy khen.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tham gia phiên toà sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn H và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn H đã được làm trong thời hạn kháng cáo, theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự nên được xác định là kháng cáo hợp pháp, được chấp nhận xem xét giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm. Đối với bị cáo Phạm Sỹ C có kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa phúc thẩm nên Hội đồng xét xử không xem xét và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Phạm Sỹ C.

[2] Xét kháng cáo của của bị cáo Nguyễn H:

Vào khoảng 02 giờ ngày 07/8/2018, tại nhà chị Chu Thị H ở phố T, xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang, Nguyễn H và Phạm Sỹ C đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 con gà lai Đông Tảo và 04 con vịt của chị H rồi đem đi tiêu thụ. Khi đi đến địa phận thôn C, xã D thì bị tổ công tác Công an xã D đang tiến hành tuần tra, kiểm soát phát hiện thu giữ 02 con gà lai Đông Tảo có tổng khối lượng 4,3kg và 04 con vịt có tổng khối lượng 5,9kg; 01 bao tải dứa màu trắng-xanh cùng một số vật chứng khác. Kết quả định giá kết luận 02 con gà lai Đông Tảo và 04 con vịt có tổng trị giá 783.000 đồng.

Các bị cáo Nguyễn H và Phạm Sỹ C có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi phạm tội của các bị cáo xâm hại quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Tuy giá trị tài sản bị trộm cắp dưới 2 triệu đồng nhưng các bị cáo đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Án sơ thẩm xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo quy định khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định trong quá trình điều tra truy tố xét xử bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ. Bị cáo trộm cắp tài sản có giá trị 783.000 đồng nên cần áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: phạm tội gây thiệt hại không lớn ở điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo trình bày có bố đẻ được tặng bằng khen, giấy khen nhưng không có căn cứ chứng minh nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo. Mặc dù được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ ở điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu, nhiều lần trộm cắp tài sản của người khác nên cần xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm xâm hại quyền sở hữu ở địa phương nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn H và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, h khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn H 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo: ngày 07/8/2018.

[2] Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; bị cáo Nguyễn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HSPT ngày 30/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về