Bản án 15/2018/HSST ngày 23/01/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 15/2018/HSST NGÀY 23/01/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 15 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 422/2017/HSST ngày 13/11/2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 426/QĐXX -ST ngày 12/12/2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 70/2017/HPT ngày 25/12/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2018/HPT ngày 15/01/2018 đối với bị cáo: Bùi Thị Th (tên gọi khác: không), sinh năm 1984, tại tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Thôn B, xã Q, huyện X, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở: Số 13, liền kề khu đô thị K, phường Đ, Quận H, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Mường; Con ông: Bùi Ngọc V (c) và bà Bùi Thị Th; Có chồng là Trịnh Xuân H; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2013.

Tiền án, tiền sự: Không. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 26/12/2016, tổ công tác Công an phường Đại Kim, Quận Hoàng Mai, Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực khu đô thị K, phường Đ, Quận H, Hà Nội thì phát hiện Bùi Thị Th có dấu hiệu bán số lô đề tại số 13 khu liền kề khu đô thị K, phường Đ, Quận H, Hà Nội nên đã tiến hành kiểm tra hành chính. Tại thời điểm kiểm tra Th khai nhận đã bán số lô đề cho khách, thời điểm kiểm tra cơ quan công an phát hiện, thu giữ 01 bảng cáp ghi số lô, đề ngày 25/12/2016, 01 bảng cáp ghi số lô, đề ngày 26/12/2016, 01 tờ tích kê ghi số lô, đề ngày 25/12/2016 và số tiền 154.000 đồng.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, Bùi Thị Th khai nhận: Th bắt đầu ghi số lô, đề cho khách từ khoảng cuối tháng 11/2016, khách mua số lô, đề là những người không rõ tên tuổi, địa chỉ. Th tự ôm bảng lô, đề mà không chuyển cho ai. Hàng ngày, Th bán số lô, đề cho khách với giá như sau:

+ Đối với số đề: Khách ghi 11.000 đồng 01 số thì thu tiền thực tế của khách là 11.000 đồng.

+ Đối với số lô: 01 điểm lô thu của khách 22.000 đồng.

+ Đối với số lô xiên: Khách ghi 10.000 đồng thì thu của khách 10.000 đồng. Về cách thức chơi và tỷ lệ thắng thua:

+ Đối với số đề: Khách mua chọn 01 số có 02 chữ số bất kỳ (từ 00 đến 99). Nếu số khách chọn trùng với 02 số cuối của giải đặc biệt trong kết quả Xố số kiến thiết miền Bắc ngày hôm đó thì khách được hưởng số tiền gấp 70 lần số tiền khách bỏ ra.

+ Đối số lô thường: Khách mua chọn 01 số có 02 chữ số bất kỳ (từ 00 đến 99), mỗi điểm lô chơi sẽ thu của khách 22.000 đồng. Nếu số khách chọn trùng với 02 số cuối của bất kỳ giải nào trong kết quả Xổ số kiến thiết miền Bắc ngày hôm đó thì khách sẽ được trả thưởng là 80.000 đồng trên 01 điểm lô đã ghi.

+ Đối với số lô xiên 2: Khách mua số lô xiên 2 chọn 02 số có 02 chữ số bất kỳ (từ 00 đến 99). Nếu 02 số đã chọn trùng với 02 số cuối của bất kỳ giải nào trong kết quả Xổ số kiến thiết miền Bắc thì khách được hưởng gấp 10 lần số tiền đã bỏ ra. Tương tự cách chơi thì lô xiên 3 được hưởng gấp 40 lần, lô xiên 4 được hưởng gấp 100 lần số tiền khách bỏ ra.

Trong ngày 25/12/2016 Th bán số lô, đề cho khách là 3.725.000 đồng. Khách trúng 29 điểm lô, tương đương số tiền 2.320.000 đồng. Xác định số tiền Th đánh bạc là: 6.045.000 đồng.

Trong ngày 26/12/2016, Th bán số lô, đề cho khách là 772.000 đồng. Th đã thu được của khách 454.000 đồng, còn lại chưa thu được, Th đã trả tiền hàng hết 300.000 đồng, còn lại 154.000 đồng thì bị cơ quan điều tra phát hiện, thu giữ.

Tại cơ quan điều tra, Bùi Thị Th khai nhận trung bình mỗi ngày Th được hưởng lợi từ việc bán số lô, đề là 200.000 đồng, tính đến thời điểm bị bắt số tiền hưởng lợi khoảng 6.000.000 đồng. Các bảng cáp, tích kê lô đề các ngày trước khi bị phát hiện Th đã tiêu hủy hết nên cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ để xử lý.

Lời khai nhận của Th phù hợp với bảng giải trình thống kê số tiền đánh lô, đề ghi trên bảng cáp cơ quan điều tra thu giữ được.

Theo kết luận giám định số 919/C54-DD4 ngày 16/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự thì chữ viết trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A1 đến A3 (trừ các chữ viết trong khung màu đỏ trên tài liệu cần giám định ký hiệu A3) so với chữ viết của Bùi Thị Th trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M6 do cùng một người viết ra.

Đối với các đối tượng đã mua số lô, đề của Bùi Thị Th hiện không xác định được nên không có căn cứ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 387/CT-VKS ngày 09/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai truy tố Bùi Thị Th về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị Th từ 06 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Hạn thử thách từ 12-20 tháng.

Hình phạt bổ sung: Miễn phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 154.000 đồng đang nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Hoàng Mai.

Buộc bị cáo phải truy nộp sung công quỹ số tiền 300.000 đồng là tiền bán lô đề ngày 26/12/2016 bị cáo đã chi tiêu cá nhân;

Truy nộp số tiền 3.000.000 đồng là tiền bị cáo được hưởng lợi từ việc bán số lô đề.

Truy nộp số tiền 3.725.000 đồng là tiền bán số lô đề ngày 25/12/2016. Tổng số tiền bị cáo phải truy nộp là 7.025.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Thị Th khai nhận ngày 25/12/2016 bị cáo đã đánh bạc dưới hình thức ghi số lô đề cho khách, số tiền là 6.045.000 đồng, ngày 26/12/2016, bị cáo đánh bạc số tiền là 772.000 đồng. Về số tiền thu lợi bất chính bị cáo thay đổi lời khai, bị cáo khai kể từ cuối tháng 11/2016 đến trước thời điểm bị bắt bị cáo ghi số lô đề trung bình mỗi ngày thu lợi là 100.000 đồng chứ không phải là 200.000 đồng như đã khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo thừa nhận Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được cải tạo ngoài xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàng Mai, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Ngày 25/12/2016 tại số 13 khu liền kề đô thị Kim Văn – Kim Lũ, phường Đại Kim, Quận Hoàng Mai, Hà Nội, Bùi Thị Th đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, đề cho nhiều khách không quen biết để thu lời bất chính. Số tiền đánh bạc trong ngày 25/12/2016 là 6.045.000 đồng. Ngày 26/12/2016 cũng với hành vi đánh bạc ghi số lô đề cho khách không quen biết, Th đã đánh bạc với số tiền 772.000 đồng. Hành vi của Bùi Thị Th đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999.

 [3] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị điều tra, truy tố trước ngày 01/01/2018 nhưng được đưa ra xét xử vào sau ngày 01/01/2018 là ngày có hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo bị truy tố về tội Đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999, mức hình phạt cao nhất là phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm. Đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 321 về tội Đánh bạc của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017), mức hình phạt cao nhất là phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm thì tội Đánh bạc theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 quy định một hình phạt nặng hơn so với tội Đánh bạc quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999. Vì vậy, vụ án của bị cáo thuộc trường hợp được áp dụng khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự,miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực pháp luật thi hành”. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng khung hình phạt quy định khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn công cộng. Đánh bạc là một tệ nạn xã hội, từ việc đánh bạc có thể dẫn đến nhiều hành vi trái pháp luật khác, gây ảnh hưởng xấu đến kinh tế các gia đình, là nguồn gốc của nhiều tệ nạn khác, gây mất ổn định xã hội.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo có bố đẻ là ông Bùi Ngọc V được tặng thưởng Huy chương kháng chiến Hạng Nhất theo Quyết định số 270 KT/CTN ngày 03/4/2001, mẹ đẻ của bị cáo là bà Bùi Thị Th được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì theo Quyết định số 262/2005/-QĐ/CTN ngày 11/4/2005. Bị cáo là con của người có công với Cách mạng nên cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

 [6] Xét nhân thân bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong đó có 02 tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Vì vậy, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo bằng hình phạt tù giam mà cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

 [7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [8] Về biện pháp tư pháp:

- Số tiền 4.179.000 đồng là số tiền bị cáo đã thực thu của khách ghi lô đề trong các ngày 25, 26/12/2016 được xác định là tiền do phạm tội mà có nên cần truy thu, sung quỹ Nhà nước. Khi bị bắt, cơ quan cảnh sát điều tra đã thu của bị cáo số tiền 154.000 đồng. Bị cáo còn phải nộp số tiền 4.025.000 đồng.

- Tại cơ quan điều tra bị cáo bắt đầu ghi lô đề từ cuối tháng 11/2016 đến ngày bị bắt, trung bình mỗi ngày hưởng lợi 200.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo thay đổi lời khai xác định chỉ được hưởng lợi trung bình mỗi ngày là 100.000 đồng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Hoàng Mai đề nghị truy thu số tiền thu lợi là 3.000.000 đồng. Hội đồng xét xử nhận thấy ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu nào làm căn cứ xác định số tiền bị cáo hưởng lợi trong các ngày bị cáo ghi lô đề trước khi bị bắt nên có căn cứ chấp nhận lời khai của bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Xác định số tiền hưởng lợi của bị cáo để truy thu, sung quỹ Nhà nước là 3.000.000 đồng.

- 02 bảng cáp ghi lô đề các ngày 25 và 26/12/2016, 01 tờ tích kê ghi số lô đề là vật chứng của vụ án nên cần tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 248 ; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999.

Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13.

Xử phạt : Bùi Thị Th 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 12 tháng kể ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

Giao bị cáo cho UBND phường Đ, Quận H, thành phố Hà Nội theo dõi, giám sát trong thời gian thử thách của bản án.

Hình phạt bổ sung : Miễn phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về biện pháp tư pháp : Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999.

- Truy thu của bị cáo số tiền 4.179.000 đồng để sung quỹ Nhà nước, được trừ vào số tiền 154.000 đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949 ngày 29/12/2016 tại Kho bạc Nhà nước Quận Hoàng Mai của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận Hoàng Mai, Hà Nội. Bị cáo còn phải nộp số tiền 4.025.000 đồng (bốn triệu không trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

- Truy thu số tiền thu lợi bất chính của bị cáo là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).

Tổng số tiền bị cáo phải nộp là 7.025.000 đồng (bảy triệu không trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

- Tiếp tục lưu giữ 02 bảng cáp ghi lô đề các ngày 25 và 26/12/2016, 01 tờ tích kê ghi số lô đề tại hồ sơ vụ án.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Mục I Danh mục án phí, lệ phí Tòa án năm 2009; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 3/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Bùi Thị Thơm phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

400
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HSST ngày 23/01/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:15/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về