Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN15/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 70/2018/TLST- HNGĐ, ngày 30 tháng 5 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2018/QĐXXST - HNGĐ, ngày 12 tháng 9 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2018/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị Diệu L, sinh năm 1990. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn R, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở: Thôn B, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đào Văn B, sinh năm 1990. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn R, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04 tháng 5 năm 2018, các lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn chị Hà Thị Diệu L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Đào Văn B trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 20 tháng 02 năm 2017 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn chị về chung sống với nhà chồng tại thôn R, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc hòa thuận. Tuy nhiên trong cuộc sống hàng ngày chị nhận thấy hai vợ chồng không hiểu nhau, thường bất đồng quan điểm, dẫn đến nhiều mâu thuẫn ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng. Ngoài ra chị còn phát hiện chồng chị sử dụng chất ma túy, chị và hai bên nội ngoại đã can ngăn nhiều lần để giữ gìn hạnh phúc gia đình nhưng anh Đào Văn B không nghe, thậm chí có lần anh còn hành hung đánh đập chị, không có trách nhiệm với vợ con. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng từ đầu năm 2018 khi chị biết anh Đào Văn B sử dụng ma túy, chị đưa con bỏ về nhà mẹ đẻ chị ở tại thôn B, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn sống ly thân anh Đào Văn B cho đến nay. Quá trình ly thân hai vợ chồng không quan tâm gì đến nhau, anh chỉ về thăm con một lần. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu được ly hôn với anh Đào Văn B.

Về con chung: Chị Hà Thị Diệu L và anh Đào Văn B có 01 con chung là cháu Đào Hà Tố U, sinh ngày 25 tháng 08 năm 2016. Hiện đang ở với chị Hà Thị Diệu L. Khi ly hôn, chị Hà Thị Diệu L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi trưởng thành, không yêu cầu anh Đào Văn B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn và tại gia đình anh Đào Văn B, bà Hoàng Thị Đ là mẹ đẻ của anh Đào Văn B, cư trú tại thôn R, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn khẳng định anh Đào Văn B thường xuyên có mặt, đi lại sinh sống ở nơi bà đang cư trú. Bà đã thông báo và giao nhận các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Đào Văn B. Anh Đào Văn B có biết việc Tòa án đã gửi, tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng để triệu tập anh Đào Văn B đến Tòa án tham gia tố tụng. Đồng thời, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết các văn bản tố tụng tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn theo đúng quy định. Tuy nhiên anh Đào Văn B cố tình không đến, không có lý do. Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên bị đơn Đào Văn B anh không đến Tòa án tham gia vào quá trình tố tụng nên không tiến hành phiên họp, hoà giải được.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật; Về nội dung vụ án: Yêu cầu ly hôn và được nuôi con chung, không yêu cầu anh Đào Văn B cấp dưỡng nuôi con của chị Hà Thị Diệu L là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh Đào Văn B cố tình vắng mặt tại phiên tòa hôm nay, không có lý do. Việc vắng mặt của anh Đào Văn B không gây cản trở cho việc xét xử, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị Hà Thị Diệu L và anh Đào Văn B kết hôn trên cơ sở tự nguyện năm 2017, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên cuộc hôn nhân này là hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do anh chị sống không có trách nhiệm với nhau, không còn thương yêu, tôn trọng nhau, thực tế anh chị đã ly thân từ đầu năm 2018 đến nay không thể khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Hà Thị Diệu L yêu cầu ly hôn là có căn cứ quy định tại các Điều 19, 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [3] Về con chung: Anh Đào Văn B không tham gia vào quá trình giải quyết và tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử thấy rằng anh Đào Văn B tự từ bỏ quyền lợi của mình về con chung. Xét yêu cầu của chị Hà Thị Diệu L về việc được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Đào Hà Tố U, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2016 cho đến khi trưởng thành có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận.

 [4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Hà Thị Diệu L không yêu cầu anh Đào Văn B phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Hà Thị Diệu L và anh Đào Văn B không có tài sản chung, nợ chung Hội đồng xét xử không xem xét.

 [6] Về án phí: Chị Hà Thị Diệu L phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 19, 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hà Thị Diệu L ly hôn với anh Đào Văn B.

2. Về con chung: Giao chị Hà Thị Diệu L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Đào Hà Tố U, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2016 cho đến khi trưởng thành. Anh Đào Văn B không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Chị Hà Thị Diệu L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để sung ngân sách nhà nước. Xác nhận chị Hà Thị Diệu L đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2012/04713, ngày 30 tháng 5 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:15/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về