Bản án 15/2017/HNGĐ-ST ngày 23/08/2017 về việc ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 15/2017/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2017 VỀ VIỆC LY HÔN

Ngày 23 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc  Ninh  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  Hôn  nhân  gia  đình  thụ  lý  số: 113/2017/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 4 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2017/QĐXX-ST ngày 11 tháng 7 năm 2017 giữa:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Tuấn H, sinh năm 1985 (Có mặt).

Địa chỉ: Tổ 1, xóm Tr, phương Đ, quân N, thành phô Hải Phòng. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Số 188, Chợ S, xã V, huyên T, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/3/2017 , bản tự khai và lời khai tại Tòa án anh Nguyễn Tuấn H trình bày: Anh H kết hôn với chị Nguyễn Thị H vào ngày 25/7/2011, có tìm hiểu, tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Sau khi kết hôn, chị H về chung sống với anh H ngay. Vợ chồng sống chung cùng gia đình anh H tại số 14 đường N, phường N, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Đầu năm 2012 vợ chồng chuyển ra ăn riêng, ở riêng tại tổ 1, xóm Tr, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng.

Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến tháng 9 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do trong cuộc sống chị H chi tiêu, quản lý kinh tế không minh bạch, vượt quá khả năng của vợ chồng dẫn đến thiếu nợ nhiều người. Mặt khác trong các mối quan hệ tình cảm chị H có những biểu hiện không đúng với chuẩn mực đạo đức. Vì vậy, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau cả tình cảm và kinh tế.  Mâu thuẫn cứ âm ỉ kéo dài, đến cuối năm 2015 vợ chồng ly thân. Đến tháng 3/2016 anh H và chị H đã thỏa thuận ly hôn gửi TAND quận N, thành phố Hải Phòng giải quyết. Tòa án đã thụ lý nhưng sau đó anh H lại rút đơn do chị H đã về Chợ S, xã V, huyên T, tỉnh Bắc Ninh sinh sống. Tháng 7/2016 anh H đã gửi đơn yêu cầu Tòa án huyện Tiên Du giải quyết. Tòa án huyện Tiên Du đã thụ lý vụ án. Trong quá trình giải quyết  vụ án anh H đã rút đơn để vợ chồng về đoàn tụ. Nhưng do vợ chồng mỗi người một nơi, ít có điều kiện gặp nhau nên tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện, mâu thuẫn vẫn tái diễn trầm trọng. Vợ chồng lại tiếp tục ly thân từ tháng 12/2016. Anh H xét thấy vợ chồng không còn tin tưởng lẫn nhau, anh không còn tình cảm với chị H. Anh H xin được ly hôn chị H.Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Tuấn M, sinh ngày 19/02/2012 và Nguyễn Tuấn N, sinh ngày 02/11/2014. Hiện anh H đang nuôi dưỡng cháu M, chị H đang nuôi dưỡng cháu N. Anh H đề nghị  được nuôi dưỡng cả hai con, không yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ: anh H chị H đã tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và lời khai tại Tòa án chị Nguyễn Thị H xác nhận phần trình bày của anh H về thời điểm kết hôn, thời gian ly thân, con chung, tài sản chung, công nợ. Theo chị H, nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn ngoài lý do kinh tế còn có ly do khác là do anh H có tình cảm với người phụ nữ khác nên lạnh nhạt với chị H. Chính vì việc này mà vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, anh H còn đánh chửi chị H. Chị H vẫn chấp nhận vì chị vẫn còn tình cảm với anh H nên chị không đồng ý ly hôn. Anh H đã nhiều lần yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng sau đó vợ chồng lại về đoàn tụ nhưng cuộc sống vợ chồng vẫn  bất hòa do anh H nghi ngờ tình cảm của chị H, ghen tuông vô cớ. Chị H tự xét thấy vợ chồng không hạnh phúc nhưng vì thương các con nên chị H muốn vợ chồng đoàn tụ. Anh H vẫn muốn ly hôn, chị H đồng ý ly hôn nhưng anh H phải để chị H  nuôi cả hai con, anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật và không làm ảnh hưởng đến cuộc sống riêng tư như các mối quan hệ bạn bè, đồng nghiệp của chị H.

Tại phiên tòa hôm nay:

Anh H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và lời khai tại Tòa án. Anh H xin được ly hôn chị H. Anh H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M, để chị H nuôi cháu N. Việc cấp dưỡng nuôi con không đề nghị giải quyết. Vấn đề tài sản chung, công nợ anh H, chị H tự giải quyết nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị H vắng mặt tại phiên tòa, tại phiên hòa giải ngày 11/7/2017 chị H đồng ý ly hôn anh H nhưng chị đề nghị được nuôi cả hai con chung và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo qui định của pháp luật. Nếu giữ nguyên hiện trạng nuôi con như hiện tại, chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Vấn đề tài sản công nợ chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện VKSND huyện Tiên Du phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, những người tham gia tố tụng và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về tố tụng: Cả Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và các đương sự đều chấp hành đúng những qui định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị H không thực hiện theo điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự đã nhiều lần vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án cũng như vắng mặt tại phiên tòa.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Tuấn H về việc xin ly hôn chị Nguyễn Thị H. Về việc nuôi dưỡng con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Tuấn M, sinh ngày 19/02/2012 và Nguyễn Tuấn N, sinh ngày 02/11/2014. Giao cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng cháu M. Giao cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng cháu N. Anh H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2017/QĐXX-ST ngày 11 tháng 7 năm 2017 của Tòa án huyện Tiên Du, phiên tòa được mở vào ngày 31/7/2017. Ngày 31/7/2017 chị H đã vắng mặt nên Tòa án phải hoãn phiên tòa, ấn định ngày mở phiên tòa tiếp theo là 23/8/2017. Tòa án đã tiến hành tống đạt quyết định hoãn phiên tòa đến chị H hợp lệ nhưng chị H vẫn vắng mặt tại phiên tòa hôm nay. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H theo qui định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Anh Nguyễn Tuấn H và chị Nguyễn Thị H  kết hôn với nhau vào ngày 25/7/2011, trên cơ sở tự nguyện và tuân thủ những qui định về điều kiện kết hôn theo qui định của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh H và chị H là hôn nhân hợp pháp.

Cuộc sống chung vợ chồng có một số mâu thuẫn do vợ chồng mất lòng tin ở nhau nên bất hòa thường xuyên xảy ra. Từ tháng 3/2016 chị H đã về số 188 Chợ S, xã V, huyên T sinh sống cùng bố mẹ đẻ. Trong suốt thời gian vợ chồng ly thân chị H và anh H cũng cố gắng để vợ chồng về đoàn tụ nhưng do điều kiện sống và việc làm ăn kinh tế của chị H không ổn định nên vợ chồng không có nhiều cơ hội gần nhau, vì vậy mà tình cảm vợ chồng không tốt lên mà ngày một xấu đi. Xét thấy, mâu thuẫn tình cảm giữa anh H, chị H đã tích tụ, âm ỉ, do không thể duy trì cuộc sống chung anh chị đã ly thân từ tháng 12/2016. Trong suốt thời gian ly thân chị H đã cố gắng níu kéo tình cảm của anh H nhưng anh H vẫn kiên quyết ly hôn nên chị H cũng đồng ý ly hôn anh H. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh H về việc xin ly hôn chị H.

Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Tuấn M, sinh ngày 19/02/2012 và Nguyễn Tuấn N, sinh ngày 02/11/2014. Hiện anh H đang nuôi dưỡng cháu M, chị H đang nuôi dưỡng cháu N. Anh H chị H đều muốn nuôi cả hai con nhưng xét thấy điều kiện sống và thu nhập của anh H, chị H đều tốt, đảm bảo cuộc sống của các con nên cần giữ nguyên hiện trạng nuôi con như hiện nay. Việc cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ anh H, chị H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết

Về án phí: Anh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 146, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 204, Điều 220, Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82;Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình

Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. 

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho anh Nguyễn Tuấn H được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

Về việc nuôi dưỡng con chung: Giao anh Hùng tiếp tục nuôi dưỡng con chung là là Nguyễn Tuấn M, sinh ngày 19/02/2012. Giao cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Tuấn N, sinh ngày 02/11/2014. Việc cấp dưỡng nuôi con không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ: không xem xét giải quyết.

Về án phí: Anh H phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số  tiền  300.000đ tạm ứng  án  phí  đã nộp  tại biên  lai  số AA/2012/02494 ngày 11/4/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiên Du. Xác nhận anh H đã nộp đủ tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Nguyên đơn  có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án xử vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

348
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2017/HNGĐ-ST ngày 23/08/2017 về việc ly hôn

Số hiệu:15/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về