Bản án 151/2021/HSPT ngày 09/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 151/2021/HSPT NGÀY 09/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2021/TLPT-HS ngày 20 tháng 4 năm 2021, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Nhân B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 81/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Nhân B, sinh năm 1990, tại: tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: Thôn T, xã K, thành phố T, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn:

9/12; Con ông Nguyễn Nhân H và bà Phạm Thị T (đều đã chết); Bị cáo có vợ là Phạm Thị Thu H, sinh năm 1988; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2019;

Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 09/8/2013, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm, xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 02/8/2018, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.

Nhân thân: Ngày 13/7/2007, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Nghệ An áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi Trộm cắp tài sản. Ngày 01/02/2009 chấp hành xong.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/9/2020, sau đó đã bỏ trốn khỏi địa phương; Ngày 03/11/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra ra quyết định truy nã. Đến ngày 21/11/2020, bị cáo ra đầu thú và bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/11/2020 đến nay – Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị cáo khác không có kháng cáo, kháng nghị, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:

Từ tháng 3/2020 đến ngày 10/6/2020, Nguyễn Nhân B đã cùng L Ktul, N Buôn Krông, sinh ngày 25/8/2004 thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản là cây cảnh các loại trên địa bàn xã K, thành phố T, tỉnh Đắk Lắk, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào buổi tối (không nhớ ngày) tháng 3/2020, N Buôn Krông điều khiển xe mô tô biển số 47AB-033.38 chở Nguyễn Nhân B ngồi sau xe, trên đường đi đến ngã 3 đường, thuộc Thôn 4, xã K, thành phố T thì B nhìn thấy trong sân nhà anh Trương Giao T có trồng nhiều cây cảnh nên B đã nảy sinh ý định trộm cắp, nên nói N Buôn Krông điều khiển xe chạy đến trước trước nhà anh T. Khi đi đến nơi B xuống xe còn N Buôn Krông chạy xe đi, B đứng quan sát thấy không có người nên đã trèo qua hàng rào vào trong sân nhà anh T, sử dụng bơm nước có sẵn trong sân bơm vào gốc ba cây mai trồng trong chậu xi măng, rồi nhổ mang ra giấu ở cột điện gần nhà anh T. Rồi đi bộ đến quán nét 333 tại Thôn M, xã K, thành phố T gặp N Buôn Krông để lấy xe mô tô quay lại chở ba cây mai trên về nhà. Do không biết cách chăm sóc nên ba cây mai đã bị chết nên B chặt bỏ đi.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 163/KLĐG ngày 12/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận:

- 01 cây mai loại thường, cao 1m, thân thẳng ngọn cắt, đường kính gốc 4cm- 5cm, tán rộng 100cm, không có hoa, trị giá 350.000 đồng.

- 01 cây mai loại thường, cao 0,8m, gốc dị dạng có phần có nhất 11cm-12cm, tướng kiểu bonsai tự uốn, tán tộng 100cm, không có hoa, trị giá 1.000.000 đồng.

- 01 cây mai loại 12 cánh, cao 1,5m, tán rộng khoảng 1m, đường kính thân 10cm, không có hoa trị giá 1.500.000 đồng.

Tổng trị giá: 2.850.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào buổi chiều (không nhớ ngày) đầu tháng 5/2020, B và N Buôn Krông đi ngang qua rẫy nhà ông Nguyễn Văn L tại thôn T, xã K, thành phố T, tỉnh Đắk Lắk. B thấy trong rẫy có trồng nhiều cây mai nên nảy sinh ý định trộm cắp nên B rủ N Buôn Krông cùng tham gia thì N Buôn Krông đồng ý. Sau đó N Buôn Krông điều khiển xe mô tô biển số 47AB-033.38 chở B mang theo một con dao dài 50cm, bản rộng 5cm, cán gỗ đi đến rẫy nhà ông L, chở B đến nơi N Buôn Krông quay về còn B một mình trèo qua hàng rào lưới B40 vào bên trong tìm công tắc bơm nước rồi kéo ống bơm nước vào hai gốc cây mai ở gần chuồng gà và bờ tường sân phơi của rẫy để nhổ rễ , sau khi nhổ được hai cây mai lên, B lấy dao chặt cành rồi kéo ra ngoài. Lúc này, N Buôn Krông điều khiển xe mô tô nói trên quay lại và đưa xe cho B điều khiển chở hai cây mai trộm cắp được đến nhà anh Bùi Văn Q để nhờ chăm sóc và nhờ anh Q bán giúp, còn N Buôn Krông đi bộ về sau.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 163/KLĐG ngày 12/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận:

- 01 cây mai loại thường, cao 1,4m, đường kính gốc 8cm, tán rộng 150cm, không có hoa, trị giá 1.200.000 đồng.

- 01 cây mai loại thường, cao 1,6m, đường kính gốc 10cm, tán rộng 150cm, không có hoa, trị giá 1.200.000 đồng.

Tổng trị giá: 2.400.000 đồng.

Vụ thứ ba: Vào buổi chiều (không nhớ ngày) giữa tháng 5/2020, khi đang nhậu ở nhà cùng với L Ktul, B nảy sinh ý định đến rẫy của ông Nguyễn Văn L trộm cắp cây mai nên đã rủ L Ktul: “Đi đào mai không?”, L Ktul đồng ý. B mang theo một con dao, một cái cưa tay và một dụng cụ xúc đất tự chế rồi điều khiển xe mô tô biển số 47AB-033.38 chở L Ktul đi đến rẫy nhà ông L. Đến nơi, B giấu xe máy cách rẫy khoảng 50m rồi cùng L Ktul đi bộ đến rẫy, trèo qua hàng rào lưới B40 vào trong. Sau đó, B bật công tắc nước, L Ktul kéo ống bơm nước vào ba gốc cây mai trồng ở sân phơi và bờ rào lưới B40. Sau khi đào được ba cây mai, B và L Ktul dùng dao, cưa cắt cành rồi vác ba cây mai ra ngoài lấy xe máy chở về nhà B. Trên đường về, B đã vứt bỏ hai cái cưa ở bãi rác gần nhà ông L. Ngày hôm sau, B chở hai cây mai ra đường quốc lộ bán cho một người đi đường (không rõ nhân thân, lai lịch) được số tiền 1.100.000 đồng, cây mai còn lại bị chết nên B đã chặt bỏ đi. Số tiền bán cây mai, B cùng L Ktul tiêu xài hết.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 163/KLĐG ngày 12/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận:

- 01 cây mai loại thường, cao 1,8m, chu vi thân 40cm-45cm, tán rộng 150cm, không có hoa, trị giá 8.000.000 đồng.

- 02 cây mai, loại thường, cao hơn 2m, chu vi thân 37cm-49cm, tán rộng 1,6m, không có hoa, trị giá: 02 cây x 5.000.000 đồng/cây = 10.000.000 đồng.

Tổng trị giá: 18.000.000 đồng.

Vụ thứ tư: Vào buổi trưa (không nhớ ngày) đầu tháng 6/2020, B rủ N Buôn Krông đi trộm cắp mai thì N Buôn Krông đồng ý. Sau đó, N Buôn Krông điều khiển xe mô tô biển số 47AB-033.38 chở B mang theo dao và dụng cụ xúc đất tự chế đến rẫy nhà ông Nguyễn Văn L. Khi đến nơi, B nói N Buôn Krông về trước rồi B trèo qua hàng rào lưới B40 vào trong đào được hai gốc hai cây mai kéo hai cây mai ra ngoài cất giấu ở rẫy cà phê gần đó rồi đi bộ về nhà. Khoảng 17 giờ cùng ngày, B mượn xe máy cày (không biển số) của bà Hồ Thị T đến chở hai cây mai trên về nhà. Trong hai cây mai trên, có một cây mai hai thân rời nhau nên B tách ra lấy một thân nhỏ trồng ở trước nhà mình còn lại gốc lớn thì B mang đi bán cho một người đi đường (không rõ nhân thân, lai lịch) được số tiền 560.000 đồng; còn một cây thì B mang qua nhà anh Bùi Văn Q nhờ chăm sóc và bán giúp.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 163/KLĐG ngày 12/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận:

- 01 cây mai loại thường, cao 2m, chu vi thân 37cm-47cm, không có hoa, trị giá 5.000.000 đồng.

- 01 cây mai loại thường, cao 2m, chu vi thân 37cm-47cm, không có hoa, trị giá 5.000.000 đồng.

Tổng trị giá: 10.000.000 đồng.

Vụ thứ năm: Vào buổi tối ngày 03/6/2020, B điều khiển xe mô tô biển số 47AB- 033.38 đi dạo trên các tuyến đường thuộc địa bàn xã K, thành phố T tìm cây cảnh để trộm. Khoảng 01 giờ ngày 04/6/2020, khi đi ngang qua nhà anh Phan H, B nhìn thấy ở trước hàng rào (ngoài khuôn viên sân) nhà anh H có trồng một cây mai nên B đã nhổ rồi chở về nhà, sau đó cây mai trên đã bị chết nên B chặt bỏ đi.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 163/KLĐG ngày 12/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận: 01 cây mai loại thường, cao khoảng 0,7m, chu vi thân 10cm, tán rộng 40cm, không có hoa, trị giá 250.000 đồng.

Vụ thứ sáu: Vào tối ngày 07/6/2020, B nảy sinh ý định trộm cắp cây cảnh rồi điều khiển xe mô tô biển số 47AB-033.38 đến nhà anh Trương Giao T, thấy bên trong sân có nhiều cây cảnh nên B để xe ở ngoài rồi trèo tường rào vào bên trong sân kéo ống bơm nước vào một gốc cây mai trong chậu, sau đó nhổ mang ra xe chở về nhà mình trồng.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 163/KLĐG ngày 12/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận: 01 cây mai loại thường, cao 2,5m, chu vi thân 16cm, đường kính gốc 10cm, tán rộng 150cm, không tạo hình và phát triển tự nhiên, không có hoa, trị giá 2.000.000 đồng.

Vụ thứ bảy: Khoảng 23 giờ ngày 08/6/2020, B gọi điện thoại rủ L Ktul đi trộm mai thì L Ktul đồng ý. B điều khiển xe máy mô tô biển số 47AB-033.38 đến quán internet 333 chở L Ktul đi đến quán cà phê X, địa chỉ: Buôn Đ, xã K, thành phố T, tỉnh Đắk Lắk (do anh Phạm Đ là chủ) khi đến nơi B và L Ktul giấu xe mô tô ở gần đó rồi đi bộ ra phía sau trường T (nằm phía sau quán cà phê) trèo qua tường rào vào bên trong sân nhổ một cây mai trồng trong chậu rồi khiêng ra ngoài, cất giấu cây mai ở vườn bắp sau trường. Sáng hôm sau, B điều khiển xe mô tô đến chở cây mai ra đường L bán cho một người đi đường (chưa rõ nhân thân, lai lịch) được số tiền 400.000 đồng, số tiền này B cùng L Ktul tiêu xài hết.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 163/KLĐG ngày 12/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận: 01 cây mai loại thường, cao 1,6m, đường kính gốc 10cm-12cm, chu vi thân 20cm-25cm, tán rộng 60cm-80cm, không có hoa, trị giá 1.200.000 đồng.

Vụ thứ tám: Khoảng 03 giờ sáng ngày 10/6/2020, B điều khiển xe mô tô biển số 47AB-033.38 đi đến Thôn H, xã K, thành phố T tìm cây cảnh để trộm cắp. Khi đi ngang qua nhà anh Nguyễn Văn T, B nhìn thấy ở phía sau nhà anh T có trồng nhiều loại cây cảnh nên dừng xe lại rồi đi bộ vào bên trong lấy trộm một gốc cây hương đang trồng trong chậu xi măng mang ra xe chở về nhà, đi theo đường bờ đê hồ K, B thấy phía sau có xe máy chạy theo, nghĩ là mình bị phát hiện nên vứt gốc cây hương xuống bên đường. Đến sáng sớm, ông Trịnh Xuân S đi tập thể dục trên bờ đê hồ K thấy gốc cây hương nên mang về nhà. Sau đó đến nhà anh T hỏi mua chậu về trồng thì được biết gốc cây hương trên của gia đình anh T bị mất nên đã trả lại anh T.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 163/KLĐG ngày 12/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận: 01 gốc cây hương dị hình, chỗ to nhất đường kính 20cm, có mọc cành cao hơn 100cm, ít lá, trị giá 3.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 81/2021/HS-ST ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Nhân B và L Ktul phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm g, h, o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Nhân B 02 năm 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt ngày 21/11/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo L Ktul, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 19/3/2021, bị cáo Nguyễn Nhân B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Nhân B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Xét mức hình phạt 02 năm 09 tháng tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là thoả đáng. Bị cáo có 01 tiền án và nhiều tình tiết tăng nặng. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự - Giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để xác định: Từ tháng 3/2020 đến ngày 10/6/2020, tại địa bàn xã K, thành phố T, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Nhân B đã trộm cắp 04 cây mai của anh Trương Giao T, tổng trị giá là 4.850.000 đồng; 07 cây mai của ông Nguyễn Văn L, tổng trị giá là 30.400.000 đồng và 01 gốc cây hương của anh Nguyễn Văn T, trị giá 3.000.000 đồng. Trong đó, Nguyễn Nhân B đã cùng L Ktul trộm cắp 03 cây mai của ông Nguyễn Văn L, tổng trị giá là 18.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Nguyễn Nhân B chiếm đoạt của các bị hại là 38.250.000 đồng, L Ktul chiếm đoạt của bị hại là 18.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Nhân B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Nhân B thì thấy: Mức hình phạt 02 năm 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Bởi lẽ, bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm (ngày 09/8/2013, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm, xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 02/8/2018, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích) và xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội, đây là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, h, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn, gây khó khăn cho quá trình điều tra giải quyết vụ án; Bị cáo còn có nhân thân xấu, ngày 13/7/2007, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Nghệ An áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi trộm cắp tài sản.

Xét thấy, Bản án sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, xem xét nhân thân của bị cáo khi quyết định hình phạt. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 81/2021/HSST ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Đắk Lắk [3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Nhân B – Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 81/2021/HSST ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Nhân B.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm g, h, o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Nhân B 02 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/11/2020.

2. Án phí: Bị cáo Nguyễn Nhân B phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2021/HSPT ngày 09/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:151/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về