Bản án 151/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 151/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 19 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 72/2021 TL T- HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 40/2021 QĐ T-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 của Toà án nhân dân huyện Gò Công Tây, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị C, sinh năm 1992.

Địa chỉ: ấp H, xã V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Tống Minh Luận M, sinh năm 1984.

Địa chỉ: ấp H, xã V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

(Chị C có mặt; anh M vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn và các lời trình bày tại tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị C trình bày:

Chị và anh Tống Minh Luận M cưới nhau năm 2008, do tự nguyện và có đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V. Quá trình chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh M ăn chơi, cờ bạc, đá gà, chị khuyên can anh M nhiều năm nhưng anh M không nghe, vợ chồng thường xuyên gây gỗ và anh M đánh chị nhiều lần, anh M không lo cho gia đình, chị và anh M đã sống ly thân từ tháng 4 2020 đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể hàn gắn tình cảm được nên chị yêu cầu ly hôn với anh M.

Về con chung: Có 02 con tên Tống Minh T, sinh ngày 15 11 2009 và Tống Minh T, sinh ngày 12 4 2018, hiện hai con đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi hai con và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Tống Minh Luận M mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh M vẫn vắng mặt và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đã chấp hành theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị C về việc xin ly hôn, về yêu cầu nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

au khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ lời trình bày của của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị C yêu cầu ly hôn với anh Tống Minh Luận M, yêu cầu được nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại địa phương nên thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện G theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét bị đơn anh Tống Minh Luận M đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt anh Mười.

[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị C, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[3.1] Về tình cảm: Chị Nguyễn Thị C và anh Tống Minh Luận M cưới nhau năm 2008, do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Chị C xin ly hôn với anh M với lý do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh M ăn chơi, cờ bạc, đá gà, chị C đã khuyên can anh M trong nhiều năm nhưng anh M không nghe, vợ chồng thường xuyên gây gỗ và anh M đánh chị C nhiều lần, anh M không lo cho gia đình, chị C và anh M đã sống ly thân từ tháng 4 2020 đến nay. Tại phiên tòa, chị C vẫn cương quyết yêu cầu xin ly hôn với anh M, phía anh Mi đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa cho thấy anh M không có thành ý cứu vãn cuộc hôn nhân giữa anh chị. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị C và anh M không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin được ly hôn của chị Nguyễn Thị C là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[3.2] Về con chung: Xét yêu cầu nuôi cháu Tống Minh T, sinh ngày 15 11 2009 và Tống Minh T1, sinh ngày 12 4 2018 của chị C là có cơ sở vì cháu T, cháu T1 đang sống với chị C đã ổn định về chỗ ở, về điều kiện sinh hoạt; cháu T1 dưới 36 tháng tuổi cần giao cho mẹ trực tiếp nuôi, cháu T có nguyện vọng muốn được sống với chị C. Phía anh M không có văn bản trình bày ý kiến về việc nuôi dưỡng cháu T, cháu T1 và vắng mặt tại phiên tòa cho thấy anh M đã từ bỏ quyền yêu cầu nuôi con của mình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị C, giao cháu T, cháu T1 cho chị C nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[3.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị C không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.4] Về tài sản chung: Chị C khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.5] Về nợ chung: Chị C khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

[5] Xét ý kiến và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.

- Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị C.

Về tình cảm: Chị Nguyễn Thị C được ly hôn với anh Tống Minh Luận M.

Về con chung: Giao cháu Tống Minh T, sinh ngày 15 11 2009 và Tống Minh T1, sinh ngày 12 4 2018 cho chị Nguyễn Thị C nuôi dưỡng cho đến khi cháu T, cháu T1 đủ 18 tuổi, lao động được.

Anh Tống Minh Luận M được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung sau khi ly hôn. Trường hợp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm; được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí mà chị đã nộp theo biên lai thu số 0017194 ngày 02/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, do vậy chị C đã nộp xong án phí.

Báo nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:151/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về