Bản án 151/2020/HS-ST ngày 26/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 151/2020/HS-ST NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 162/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 209/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Văn M (tên gọi khác: Chó con), sinh năm 1990, tại Bình Thuận.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Khu phố 2, phường L Đ, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S, sinh năm 1966 và bà Phùng Thị Diệu H, sinh năm 1966; Vợ: Đỗ Thị Trúc Th, sinh năm 1994 và có 01 con, sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân:

+ Ngày 31/8/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 140/2009/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/5/2010.

+ Ngày 12/3/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 31/2013/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/01/2014.

+ Ngày 13/5/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 68/2015/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/5/2017.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/7/2020.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Lê M Th – sinh năm: 1998. Trú tại: Thôn H T, xã Ngh H, huyện T Ngh, tỉnh Quảng Ngãi (vắng mặt).

2. Trần Hoài Th – sinh năm 1998. Trú tại: xã Ngh H, huyện T Ngh, tỉnh Quảng Ngãi (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Huỳnh Chí T – sinh năm 1981. Tạm trú tại: Số 105 Hải Thượng Lãn Ông, khu phố 8, phường Ph Tr, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 12/6/2020, Lê Văn M điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vario, biển số 86C1-802.80 đi đến khu phố 2, phường Phú Th, thành phố Phan Thiết tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi ngang qua hẻm 52 đường Lê Quý Đôn (thuộc khu phố 2, phường phú Th, thành phố Phan Thiết), M dừng xe mô tô ở bên ngoài khu nhà trọ của anh Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1975) rồi đi bộ vào bên trong để trộm cắp tài sản. Khi đi ngang phòng trọ số 3 của anh Lê M Th (sinh năm 1998) và anh Trần Hoài Th (sinh năm 1998, cùng trú tại: xã Ngh H, huyện T Ngh, tỉnh Quảng Ngãi) đang thuê trọ tại đây, M thấy cửa phòng không khóa nên đẩy cửa đi vào. M nhìn thấy anh Trần Hoài Th đang ngủ trên tấm nệm được trải trên sàn, bên cạnh có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus, trên chiếc bàn gỗ gần đó có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A3s của anh Lê M Thảo. M lén lút lấy trộm 02 chiếc điện thoại nói trên rồi ra khỏi phòng trọ và điều khiển xe mô tô tẩu thoát. Sau đó, M kiểm tra 02 chiếc điện thoại vừa trộm cắp được thì thấy có mật khẩu màn hình nên đã mang 02 điện thoại này đến tiệm điện thoại Tâm Mobile ở địa chỉ số 105 đường Hải Thượng Lãn Ông thuộc khu phố 8, phường Ph Tr, thành phố Phan Thiết gặp anh Nguyễn Huỳnh Chí T (sinh năm 1981, HKTT: phường 12, quận 5, TP. Hồ Chí Minh). M nói dối đây là điện thoại của mình và quên mật khẩu nên anh T tin tưởng và đồng ý chạy lại mật khẩu để mở khóa màn hình. Sau khi gửi lại 02 chiếc điện thoại ở tiệm của anh T để mở khóa, M điều khiển xe mô tô đi về nhà.

Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, anh Trần Hoài Th và Lê M Th phát hiện bị mất trộm 02 chiếc điện thoại. Qua kiểm tra camera của phòng trọ thì cả hai nhìn thấy một người thanh niên đã trộm cắp tài sản của mình. Tuy nhiên do bận việc cá nhân nên anh Th và anh Th chưa đến Công an phường trình báo sự việc. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, Lê Văn M điều khiển xe mô tô biển số 86C1-802.80 quay lại dãy phòng trọ trong hẻm 52 đường Lê Quý Đôn với ý định tiếp tục trộm cắp tài sản. Khi thấy M điều khiển xe đến khu phòng trọ, anh Th và anh Th nhận ra M chính là người đã trộm cắp tài sản của mình nên đã đến Công an phường Phú Th trình báo sự việc. Cơ quan Công an đã mời M về trụ sở để làm việc. Quá trình điều tra, M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 148 ngày 3 tháng 7 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận:

01 điện thoại di động hiệu Oppo A3s màu đỏ, Imei 1: 866531046374275, Imei 2: 866531046374267 trị giá 3.200.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus màu vàng đồng, Imei: 359322061561176 trị giá 3.440.000 đồng, tổng trị giá 6.640.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- Thu giữ của Lê Văn M:

+ 01 xe mô tô hiệu Honda Vario màu trắng đen, biển số 86C1-802.80, số khung: 4115JK104411, KF41E1105059.

+ Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 700.000 đồng.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu cam, Seri 1: 356002083064226, Seri 2: 356002083064234.

- Thu giữ của Nguyễn Huỳnh Chí T:

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3s màu đỏ, Imei 1: 866531046374275, Imei 2: 866531046374267.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus màu vàng đồng, Imei: 359322061561176.

- 01 USB có chứa đoạn video ghi nhận lại hình ảnh của Lê Văn M khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (do bị hại Lê M Th tự trích xuất từ hệ thống camera an ninh tại khu nhà trọ giao nộp).

Xử lý vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại 02 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A3s và Iphone 6 plus cho chị Nguyễn Thị Mỹ L (sinh năm 1984, trú tại; khu phố 3, phường Phú T, thành phố Phan Thiết) theo giấy ủy quyền ngày 10/7/2020 của anh Trần Hoài Th và anh Lê M Th. Sau khi nhận lại tài sản, chị L, anh Th, anh Th không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Vario màu trắng đen, biển số 86C1- 802.80 là phương tiện Lê Văn M dùng để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản do ông Lê Văn S (sinh năm 1966, trú tại: khu phố 2, phường L Đ, thành phố Phan Thiết) là cha ruột của M đứng tên sở hữu. Ngày 1/6/2020, ông S cho M mượn xe để đi công việc nên không biết việc M sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã trả lại tài sản trên cho ông Lê Văn S. Sau khi nhận lại tài sản, ông S không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia và số tiền 700.000 đồng thu giữ của Lê Văn M. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá nhân của M, không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã trả lại tài sản trên cho M.

Đối với 01 USB có chứa đoạn video ghi nhận lại hình ảnh của Lê Văn M khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản được chuyển lưu cùng hồ sơ vụ án.

Đối với anh Nguyễn Huỳnh Chí T là người nhận mở khóa màn hình cho 2 điện thoại di động do M trộm cắp mang tới. Anh T không có yêu cầu gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 165/CT-VKSPT ngày 01/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận truy tố bị cáo Lê Văn Mvề tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn Mtừ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, vắng mặt các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tuy nhiên những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra, đồng thời phần bồi thường dân sự đã giải quyết xong. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, các bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt những người này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, tại bản cáo trạng, lời khai của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã thu giữ cũng như các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ căn cứ để kết luận vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 12/6/2020 tại phòng trọ ở khu phố 2, phường Phú Th, thành phố Phan Thiết, Lê Văn M đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3s của anh Lê M Th và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus của anh Trần Hoài Th.

[4] Tại bản kết luận định giá tài sản số 148 ngày 3 tháng 7 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Thiết kết luận:

01 điện thoại di động hiệu Oppo A3s màu đỏ, Imei 1: 866531046374275, Imei 2: 866531046374267 trị giá 3.200.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus màu vàng đồng, Imei: 359322061561176 trị giá 3.440.000 đồng, tổng trị giá 6.640.000 đồng.

[5] Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị cáo là hành vi cố ý, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, hơn nữa còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Hành vi của bị cáo Lê Văn M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 như nội dung cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết là có căn cứ, hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[6] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo: Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo tuy là lén lút đối với các chủ sở hữu nhưng rất liều lĩnh, đột nhập vào phòng trọ vào ban ngày khi trong phòng đang có người nằm ngủ để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, sau khi thực hiện được việc trộm cắp tài sản một cách dễ dàng bị cáo lại tiếp tục quay lại phòng trọ với ý định tiếp tục trộm cắp, hành vi này thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo Lê Văn M là công dân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xét xử về tội trộm cắp tài sản nên hoàn toàn có đủ điều kiện để nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Lẽ ra khi chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo phải ăn năn hối cải để trở thành công dân tốt, nhưng ngược lại chỉ vì lòng tham, bản tính lười lao động, muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài mà không do sức lao động chính đáng nên bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện rõ bản chất xem thường pháp luật, chưa ăn năn hối cải của bị cáo.

[7] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên cần xem xét khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

[8] Sau khi cân nhắc tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử lý bị cáo bằng một mức án nghiêm khắc, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[9] Về xử lý vật chứng và dân sự:

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại 02 chiếc điện thoại di động hiệu Oppo A3s và Iphone 6 plus cho chị Nguyễn Thị Mỹ L (sinh năm 1984, trú tại; khu phố 3, phường Phú T, thành phố Phan Thiết) theo giấy ủy quyền ngày 10/7/2020 của anh Trần Hoài Th và anh Lê Minh Th. Sau khi nhận lại tài sản, chị L, anh Th, anh Th không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Vario màu trắng đen, biển số 86C1- 802.80 là phương tiện Lê Văn M dùng để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản do ông Lê Văn S là cha ruột của M đứng tên sở hữu. Ngày 12/6/2020, ông S cho M mượn xe để đi công việc nên không biết việc M sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã trả lại tài sản trên cho ông Lê Văn S. Sau khi nhận lại tài sản, ông S không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia và số tiền 700.000 đồng thu giữ của Lê Văn M. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản cá nhân của M, không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã trả lại tài sản trên cho M.

Đối với anh Nguyễn Huỳnh Chí T là người nhận mở khóa màn hình cho 2 điện thoại di động do M trộm cắp mang tới. Anh T không có yêu cầu gì về dân sự.

Xét thấy việc xử lý vật chứng và việc bồi thường dân sự đã giải quyết xong nên không đặt ra để xem xét nữa.

Đối với 01 USB có chứa đoạn video ghi nhận lại hình ảnh của Lê Văn M khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản được chuyển lưu cùng hồ sơ vụ án. Xét thấy đây là chứng cứ đi kèm với hồ sơ vụ án nên cần lưu hồ sơ vụ án.

[10] Đối với ông Lê Văn S và Nguyễn Huỳnh Chí T, là người đã cho M mượn xe mô tô, sửa chữa điện thoại do M trộm cắp mà có, do ông Sáu không biết việc M sử dụng xe ô tô để trộm cắp tài sản và anh T không biết đây là tài sản có nguồn gốc phạm pháp nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xem xét xử lý là có căn cứ.

[11] Về án phí: Bị cáo Lê Văn M phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Mphạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn M 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 07/7/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Lưu hồ sơ vụ án 01 USB có chứa đoạn video ghi nhận lại hình ảnh của Lê Văn M khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 12/6/2020 được chuyển cùng hồ sơ vụ án.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Văn M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/10/2020). Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2020/HS-ST ngày 26/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:151/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về