Bản án 151/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 151/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 168/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175/2020/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Hoàng Văn B, sinh ngày 27/7/1988 tại tỉnh Nghệ An. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 10, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; Chỗ ở hiện nay: Phường C, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Văn Ch, sinh năm 1968 (đã chết) và bà Trương Thị Ngh, sinh năm 1969; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 02/7/2020. Bị cáo có mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Lê Văn T, sinh năm 2000 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố P, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

+ Bà Đoàn Thị Thu Th, sinh năm (vắng mặt) Địa chỉ: 17/10 T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng giữa tháng 4 năm 2020, Hoàng Văn B nhắn tin qua mạng Zalo với một người thanh niên tên N và hẹn mua 100 viên thuốc lắc với giá 150.000 đồng/1 viên để sử dụng, N đồng ý và cho số tài khoản của một người tên Ph để B chuyển tiền mua ma túy, B đã chuyển số tiền 15.000.000 đồng vào số tài khoản trên. B và N thống nhất gửi số thuốc lắc qua bưu kiện theo địa chỉ B cung cấp. Đến ngày 02/5/2020, B nhận được một thùng hàng bên trong có chứa dầu gội đầu, nước rửa chén, sữa tắm và 100 viên thuốc lắc chứa trong bình thủy tinh, B đã sử dụng hết 70 viên, còn lại 30 viên B để sử dụng dần. Ngày 01/7/2020, B điều khiển xe mô tô biển số 60B5-758.79 đi từ Bình Dương đến Bà Rịa – Vũng Tàu chơi. Đến ngày 02/7/2020 B đi về thị trấn H, huyện N gặp bạn của B là Lê Văn T (sinh năm 2000), đăng ký thường trú tại ấp N, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Sau khi gặp T, B nói tìm cho B 01 phòng nghỉ qua đêm. T đồng ý và ngồi sau xe của B chỉ đường đến nhà nghỉ Đoàn G thuộc ấp T, Xã P, huyện N. Khi cả hai đến quầy lễ tân để đặt phòng thì bị tổ chuyển hóa địa bàn Công an huyện Nhơn Trạch cùng Công an Xã P phát hiện bắt quả tang và thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của Hoàng Văn B có 01 vỏ gói thuốc lá hiệu CRAVEN, bên trong có 02 gói nylon chứa 30 viên nén (01 gói chứa 13 viên nén màu hồng nhạt, hình khối chữ nhật, kích thước khoảng 0,5x0,3cm, một mặt có chữ L và V lồng vào nhau, một mặt có hình bông hoa và 01 gói chứa 17 viên nén hình chiếc lá, màu vàng nhạt, có kích thước khoảng 0,5cm, một mặt không có chữ hay họa tiết gì, một mặt có hình giống mặt người đang cười). Quá trình điều tra B khai nhận 30 viên nén nêu trên là ma túy tổng hợp (thường gọi là thuốc lắc) của B mua về để sử dụng. Tổ công tác đưa B cùng tang vật về trụ sở Công an Xã P lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm:

+ 01 vỏ gói thuốc lá hiệu CRAVEN, màu đỏ trắng:

+ 02 gói nylon, bên trong chứa 30 viên nén đã được niêm phong trong phong thư ký hiệu M:

+ 01 xe mô tô biển số 60B5-758.79:

+ 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe:

+ 01 Giấy CMND mang tên Hoàng Văn B:

+ 01 điện thoại di động có ghi chữ IPHONE gắn sim viettel:

+ 01 ví da màu đen; số tiền 130.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số: 1368/KLGĐ- PC09 ngày 08/7/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận 17 viên nén màu vàng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma tuý, có khối lượng: 7,8059 gam, loại: MDMA; 13 viên nén màu hồng hình chữ nhật có logo chữ L,V lồng vào nhau (ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma tuý, có khối lượng:

5,5100 gam, loại: MDMA.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 151/CT.VKS-NT ngày 12/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch đã truy tố bị cáo Hoàng Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Hoàng Văn B từ 06 (sáu) đến 07 (bảy) năm tù.

Về biện pháp tư pháp: đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ gói thuốc lá hiệu CRAVEN; 01 gói niêm phong số: 1368/KLGĐ-PC09 ngày 08/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai (mẫu vật ma túy còn lại sau giám định có khối lượng M1= 6,4221 gam, M2=4,6545 gam) và 01 sim viettel.

+ Tịch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu IPHONE là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

+ Trả lại cho bị can Hoàng Văn B 01 Giấy CMND mang tên Hoàng Văn B, 01 ví da màu đen và số tiền 130.000 đồng do không liên quan đến vụ án.

Bị cáo Hoàng Văn B không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch.

Lời nói sau cùng của bị cáo Hoàng Văn B tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhơn Trạch, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Về việc vắng mặt của người làm chứng: Người làm chứng là ông Lê Văn T và bà Đoàn Thị Thu Th đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, ông T, bà Th đã có lời khai tại hồ sơ và việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 292 và Điều 293 tiến hành xét xử vắng mặt ông T, bà Th.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn B đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án.

Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 02/7/2020 tại ấp Tr, Xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai, Hoàng Văn B đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 13.3159 gam ma túy loại MDMA để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Hoàng Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy; làm lan tràn tệ nạn xã hội nghiện ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Tuy nhiên, bị cáo khai việc làm và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Hoàng Văn B không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên Tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy cần tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ gói thuốc lá hiệu CRAVEN; 01 gói niêm phong số: 1368/KLGĐ-PC09 ngày 08/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 sim viettel.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động có ghi chữ IPHONE là phương tiện của bị cáo B dùng vào việc phạm tội.

Trả lại cho bị cáo B 01 Giấy CMND mang tên Hoàng Văn B, 01 ví da màu đen và số tiền 130.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) do không liên quan đến vụ án.

[8] Đối với các đối tượng tên N và Ph có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Hoàng Văn B do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Đối với Lê Văn T là người đưa B đi thuê phòng tại nhà nghỉ Đoàn Gia, do T không biết B tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[9] Đối với xe mô tô biển số 60B5-758.79 cùng giấy đăng ký xe, do chưa xác định được nguồn gốc, chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn B phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017):

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn B 06 (sáu) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày 02/7/2020.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động, có ghi chữ IPHONE của bị cáo Hoàng Văn B.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) vỏ thuốc lá hiệu CRAVEN; 01 (một) gói niêm phong số: 1368/KLGĐ-PC09 ngày 08/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 (một) sim Viettel của bị cáo Hoàng Văn B.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn B 01 Giấy CMND mang tên Hoàng Văn B, 01 ví da màu đen và số tiền 130.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) do không liên quan đến vụ án.

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch đang lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng và Giấy nộp tiền cùng ngày 23/11/2012).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hoàng Văn B phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:151/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về