Bản án 151/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 151/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 145/2020/HSST ngày 07 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1110/2020/QĐXXST-HS ngày 02/11/2020 đối với bị cáo:

Đinh Văn S, sinh ngày 06/02/1983 tại tỉnh Hòa Bình; Giới tính: Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn R, xã K, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Chỗ ở hiện nay: 4x đường B, Phường HT, quận BT, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông Đinh Xuân K1 (sinh năm 1920, đã chết) và bà Bùi Thị V6 (sinh năm 1949, đã chết); Bị cáo là con thứ ba trong gia đình có 04 người con; Vợ là bà Phạm Thị LN (sinh năm 1987, đã ly hôn), có 01 người con sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/6/2020 cho đến nay (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1976 (Vắng mặt).

Địa chỉ: 5x đường Đ, Phường HN, quận BT, Tp. Hồ Chí Minh.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1992 (Vắng mặt).

Địa chỉ: 1x đường L, Phường B3, Quận B, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ông Lê Đức DY, sinh năm 1997 (Vắng mặt).

Địa chỉ: 7x đường Y, phường C, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 14/6/2020, Đinh Văn S điều khiển xe mô tô hiệu SYM – loại Attila biển kiểm soát 59S1- 677.xx đến trước hẻm số 1x đường B, Phường P, Quận M; S đi bộ vào hẻm mua của 01 đối tượng là phụ nữ (chưa rõ lai lịch) 02 gói Heroine với giá 360.000 đồng; S bỏ vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi đi về.

Đến khoảng 22 giờ 50 phút ngày 14/6/2020, S điều khiển xe mô tô đến trước số 3x đường L, phường B, Quận M thì bị các ông Nguyễn Hoàng N, Lê Đức DY (cùng là Công an Quận 1) đang đi tuần tra phát hiện S có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên đưa S về Công an phường B, Quận M để kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi quần phía trước bên phải S đang mặc có 02 gói nylon chứa chất bột màu trắng (S khai là ma túy) nên đã thu giữ vật chứng, bàn giao Công an phường B, Quận M tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang sau đó chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 giải quyết theo thẩm quyền.

Theo Kết luận giám định số 996/KLGĐ-H ngày 22/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đinh Văn S và hình dấu Công an phường B, Quận M đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,3772 gam (không phẩy ba bảy bảy hai gam), loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Đinh Văn S khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của S phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong tài liệu, đồ vật, kết luận giám định; lời khai của những người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập.

Vật chứng vụ án:

- 01 (Một) gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đại úy Lê Thị Hằng và Nguyễn Hoàng Anh, ghi số vụ 996/20 Q1 bên trong chứa 0,3772 gam Heroine.

- 01 (Một) điện thoại di động Samsung, số Imeil: 355915102770625/01, số Imei2: 355916102770623/01.

- 01 (Một) xe mô tô hiệu SYM – loại Attila biển kiểm soát 59S1-677.xx. Qua xác minh do ông Nguyễn Ngọc D đứng tên chủ sở hữu, ông D khai đã bán xe cho bị cáo vào khoảng năm 2017 (không còn giấy tờ mua bán xe, không có công chứng).

Tất cả các vật chứng trên hiện Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 1 đang tạm giữ.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Đinh Văn S, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch nên tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 152/CT-VKSQ1 ngày 06 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đinh Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đinh Văn S từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, đồng thời áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo một số tiền nhất định để sung vào công quỹ Nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Các vật chứng đề nghị xử lý theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định vào khoảng 22 giờ 50 phút ngày 14/6/2020, tại trước số nhà 3x đường L, phường B, Quận M, Tp. Hồ Chí Mính, Đinh Văn S có hành vi cất giữ 0,3772 gam ma túy ở thể rắn, loại Heroin nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Do đó, hành vi của bị cáo S đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Đối với đối tượng (không rõ lai lịch) bán ma túy cho S, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Quận 1 tiếp tục, điều tra xử lý sau là đúng quy định.

[3]. Ma túy là hiểm họa của toàn xã hội, là chất độc dược ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng cũng như là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý đối với các chất ma túy. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân vẫn cố tình thực hiện. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe đối với bản thân bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Ngoài ra, xét thấy cần thiết phải áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhận thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lần đầu phạm tội, chưa có tiền án tiền sự nên khi lượng hình Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- 01 (Một) gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đại úy Lê Thị Hằng và Nguyễn Hoàng Anh, ghi số vụ 996/20 Q1 bên trong chứa 0,3772 gam Heroine, sau giám định là 0,2985 gam thu giữ của Đinh Văn S xét thấy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (Một) xe mô tô hiệu SYM – loại Attila biển kiểm soát 59S1-677.xx, số máy VMVUACD-024513, số khung 11CDCD-024513. Qua xác minh do ông Nguyễn Ngọc D đứng tên chủ sở hữu, ông D khai đã bán xe cho bị cáo vào khoảng năm 2017 (không còn giấy tờ mua bán xe, không có công chứng, ông Dũng đã giao giấy đăng ký xe cho bị cáo). Ông D không có yêu cầu gì đối với chiếc xe. Do chiếc xe là phương tiện bị cáo sử dụng khi đi mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- 01 (Một) điện thoại di động Samsung, số Imei l: 355915102770625/01, số Imei 2: 355916102770623/01 thu giữ của Đinh Văn S, xét thấy không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho Đinh Văn S.

[6]. Án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng bị cáo chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đinh Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt Đinh Văn S 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/6/2020.

Phạt bị cáo số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đại úy Lê Thị Hằng và Nguyễn Hoàng Anh, ghi số vụ 996/20 Q1 bên trong chứa 0,3772 gam Heroine, sau giám định là 0,2985 gam.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 121/20-PNK ngày 15/7/2020 của Công an Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh).

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (Một) xe mô tô hiệu SYM – loại Attila biển kiểm soát 59S1-677.xx, số máy VMVUACD-024513, số khung 11CDCD-024513 đứng tên Nguyễn Ngọc D.

+ Trả lại cho Đinh Văn S 01 (Một) điện thoại di động Samsung, số Imei l: 355915102770625/01, số Imei 2: 355916102770623/01 nhưng trước mắt cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 122/20-PNK ngày 15/7/2020 của Công an Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh).

- Áp dụng Điều 135; 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đinh Văn S phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Áp dụng các Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 151/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:151/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về