TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 151/2020/HS-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 164/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:129/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Trịnh Quang D, sinh ngày 19 tháng 12 năm 1990 tại H; nơi cư trú: đường M, phường DH, quận Lê Chân, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động T do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn Th (đã chết) và bà Nguyễn Thị Nh; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 05 tháng 10 năm 2020, tạm giam ngày 06 tháng 10 năm 2020; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 21 giờ 30 phút ngày 04/10/2020, Công an phường Đ, quận N, thành phố H tiến hành kiểm tra hành chính nhà nghỉ 61 ngõ 80 đường NB, phường Đ, quận N, thành phố H phát hiện, bắt quả tang Trịnh Quang D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng 205 của nhà nghỉ. Tại chỗ, cơ quan Công an thu giữ toàn bộ vật chứng và dẫn giải đối tượng về trụ sở lập biên bản.
Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon trong suốt, kích thước 02 x 02 cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng (mẫu số 01) và 01 chai đựng nước tiểu ghi tên Trịnh Quang D (mẫu số 2).
Tại Kết luận giám định số 640/KLGĐ-MT ngày 06/10/2020 thể hiện:
- Tinh thể màu trắng của mẫu số 1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,12 gam, là loại Methamphetamine.
- Nước tiểu mẫu số 2 ghi tên Trịnh Quang D gửi giám định tìm thấy chất ma túy, loại Methamphetamine.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trịnh Quang D tại số 26 ngách 23 ngõ 409 đường M, phường DH, quận Lê Chân, thành phố H không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến ma túy.
Quá trình điều tra Trịnh Quang D khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 04/10/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy đá nên Trịnh Quang D một mình đi lên khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố H mua của một người phụ nữ không quen biết 300.000 đồng ma túy đá để sử dụng cho bản thân. Người phụ nữ đồng ý và đưa cho Trịnh Quang D 01 gói nilon kích thước 02 x 02 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. Người phụ nữ còn cho Trịnh Quang D 01 bộ dụng cụ ma túy gồm 01 tẩu thủy tinh và 01 ống hút nhựa. Mua được ma túy, Trịnh Quang D cất vào trong ví rồi đi về nhà. Tại nhà, Trịnh Quang D lấy chai nước ngọt C2, đục 02 lỗ trên nắp chai (01 lỗ để cắm tẩu thủy tinh, 01 lỗ cắm ống hút nhựa) rồi đổ một nửa gói ma túy vừa mua vào tẩu thủy tinh, dùng bật lửa đốt dưới tẩu để ma túy cháy thành khói rồi hút khói vào cơ thể. Sử dụng xong ma túy, Trịnh Quang D vứt bộ sử dụng đi và cất số ma túy còn lại vào trong ví. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Trịnh Quang D đến chơi và mua đồ ăn cho bạn là Đỗ Văn T, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ 2 phường Hòa Nghĩa, quận DK, thành phố H ở phòng 205 nhà nghỉ 61 ngõ 80 NB, phường Đ, quận N, thành phố H. Tại đây, Trịnh Quang D lấy gói ma túy trong ví cất vào hộp đựng kính màu đen Trịnh Quang D đem theo rồi để trên mặt bàn cạnh đầu giường mục đích là khi nào có cơ hội sẽ mang ra sử dụng một mình. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì Trịnh Quang D bị Công an phường Đ kiểm tra bắt quả tang, thu giữ gói ma túy. Trịnh Quang D khai nhận không nói gì với anh Đỗ Văn T nên anh Đỗ Văn T không biết việc Trịnh Quang D cất giấu ma túy và nguồn gốc ma túy từ đâu mà có.
Lời khai của anh Đỗ Văn T thể hiện: Vào khoảng giữa tháng 9 năm 2020, anh Đỗ Văn T thuê phòng 205 tại nhà nghỉ 61 ngõ 80 đường NB, phường Đ, quận N với giá 1.000.000 đồng/ tháng để ở. Anh Đỗ Văn T và Trịnh Quang D là bạn bè quen biết xã hội, không có thù oán, xích mích gì với nhau. Khoảng 14 giờ ngày 04/10/2020, anh Đỗ Văn T đang ở phòng thì Trịnh Quang D gọi hỏi có ở phòng không để Trịnh Quang D đến chơi thì anh Đỗ Văn T bảo có và nhờ Trịnh Quang D mua đồ ăn mang lên phòng. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Trịnh Quang D đến phòng anh Đỗ Văn T chơi và mang đồ ăn đến. Tại đây, anh Đỗ Văn T có thấy Trịnh Quang D để một hộp kính màu đen lên mặt bàn cạnh đầu giường trong phòng. Đến 21 giờ 30 phút cùng ngày, Công an phường Đ vào phòng kiểm tra hành chính, phát hiện trong hộp kính Trịnh Quang D để trên bàn cạnh đầu giường có 01 gói nilon kích thướng 02 x 02 cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, Trịnh Quang D khai nhận là ma túy đá. Bản thân anh Đỗ Văn T không biết nguồn gốc gói ma túy do đâu mà có và cũng không biết việc Trịnh Quang D mang ma túy đến phòng.
Lời khai nhận tội nêu trên của Trịnh Quang D, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ và kết luận giám định.
Về xử lý vật chứng:
- 01 điện thoại di động OPPO màu xanh đen đã qua sử dụng của anh Đỗ Văn T. Qua quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định chiếc điện thoại trên của anh Đỗ Văn T không liên quan gì đến vụ án nên đã trả lại cho anh Đỗ Văn T.
- 01 điện thoại di động VIVO màu đen đã qua sử dụng của Trịnh Quang D. Qua quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định chiếc điện thoại trên của Trịnh Quang D không sử dụng vào mục đích phạm tội nên phải trả lại cho Trịnh Quang D. Tuy nhiên, để đảm bảo cho quá trình truy tố, xét xử, thi hành án nên Cơ quan điều tra đề nghị chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận N.
Tại Bản Cáo trạng số 149/CT-VKSNQ ngày 20/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận N, thành phố H đã truy tố bị cáo Trịnh Quang D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Quang D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung trên, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Quang D với mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo do các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 640/2020/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động VIVO màu đen đã qua sử dụng nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành.
Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, thành phố H, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận N, thành phố H, Kiểm sát viên:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận N, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình T, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về tội danh:
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Quang D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác được Cơ quan điều tra thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với sự thật khách quan, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 04/10/2020 tại phòng 205 nhà nghỉ 61 ngõ 80 đường NB, phường Đ, quận N, Công an phường Đ bắt quả tang Trịnh Quang D có hành vi cất giấu trái phép 0,12 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích gì khác. Tại thời điểm thực hiện hành vi (ngày 04/10/2020), bị cáo Trịnh Quang D là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo Trịnh Quang D đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận N, thành phố H truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.
- Đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật T trị an xã hội, làm phát sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm hình sự khác.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
[4] Bị cáo Trịnh Quang D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Quang D có thái độ khai báo thành khẩn, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ, trên cơ sở đề nghị của Kiểm sát viên và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa; sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, bắt bị cáo tiếp tục cách ly khỏi xã hội một thời gian, mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phát huy tác dụng răn đe, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.
- Về hình phạt bổ sung:
[7] Căn cứ biên bản xác minh ngày 05/10/2020 cho thấy bị cáo không có tài sản, không nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
- Về xử lý vật chứng:
[8] 01 điện thoại di động OPPO màu xanh đen đã qua sử dụng của anh Đỗ Văn T. Qua quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định chiếc điện thoại trên của anh Đỗ Văn T không liên quan gì đến vụ án nên đã trả lại cho anh Đỗ Văn T nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[9] Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 640/2020/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động VIVO màu đen đã qua sử dụng nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành.
- Về án phí:
[10] Bị cáo Trịnh Quang D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo đối với bản án:
[11] Bị cáo Trịnh Quang D được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[12] Trong vụ án này: Đối với đối tượng bán ma tuý cho Trịnh Quang D, hiện chưa xác minh được lai lịch địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn cứ xử lý sau.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trịnh Quang D 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05 tháng 10 năm 2020.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 640/2020/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động VIVO màu đen đã qua sử dụng nhưng tạm giữ lại để đảm bảo việc thi hành. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận N, thành phố H.
Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trịnh Quang D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Trịnh Quang D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, T nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 151/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 151/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về