Bản án 151/2020/HS-ST ngày 03/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 151/2020/HS-ST NGÀY 03/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 133/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 353/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức H, sinh năm 1956 tại Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn G, xã K, huyện G, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 05/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức C và bà Nguyễn Thị C (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị T và 03 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Bản án số 1323 ngày 12/9/1998 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử 4 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); bị tạm giữ ngày 11/6/2020; tạm giam ngày 13/6/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 15 phút ngày 11/6/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Lê Chân, Hải Phòng làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà số 1 Nhà Thương, quận Lê Chân, Hải Phòng, phát hiện Nguyễn Đức H ngồi sau xe mô tô biển kiểm soát 16F4-3960 do Vũ Phạm Thắng, sinh năm 1954, trú tại: số 26/131 H Duệ Vương, quận Hồng Bàng, Hải Phòng điều khiển, có biểu hiện nghi vấn cất giữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, phát hiện trong túi quần bên trái phía trước của H đang mặc 01 túi nilon màu đen, bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa chất bột dạng cục màu trắng và 01 gói giấy màu trắng đựng chất bột màu trắng nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của H 11.800.000đ ở cạp quần và 1.350.000 đồng ở trong ví để ở túi quần đằng sau bên phải H đang mặc, 01 điện thoại Masstel, thu giữ của Thắng 01 xe mô tô biển kiểm soát 16F4- 3960. Sau đó cơ quan công an đã đưa H và Thắng cùng vật chứng thu giữ về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 344/KLGĐ(Đ6) ngày 12/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng trong 01 gói nilon và 01 gói giấy thu giữ của H là ma túy, có khối lượng 3,79 gam, là loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đức H khai: Khoảng 08 giờ ngày 11/6/2020, H đi xe ôm của một người không quen biết đến khu vực chắn tàu đường Cát Cụt để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. H gặp một người nam giới khoảng 40 tuổi, đeo khẩu trang đang đứng ở đầu chắn tàu, H hỏi mua ma túy của nam giới này rồi đưa 2.800.000 đồng, nam giới này cầm tiền và đi bộ vào trong đường tàu. Khoảng 05 phút sau, nam giới này quay lại đưa cho H 01 gói nilon màu đen đựng Heroine. H nhận gói ma túy cất vào túi quần phía trước bên trái rồi đi ra khu vực cổng trường đường Hai Bà Trưng thuê người làm xe ôm là Vũ Phạm Thắng chở ra bến xe Thượng Lý. Khi Thắng điều khiển xe máy BKS 16F4-3960 chở H đi đến khu vực trước của nhà số 1 Nhà Thương thì bị lực lượng công an kiểm tra, bắt quả tang như trên. Trước ngày bị bắt giữ khoảng 10 ngày, H đã có một lần mua ma túy của nam giới này.

Vũ Phạm Thắng khai: Thắng chỉ là người làm xe ôm được H thuê chở đi đến bến xe. Thắng không biết việc H mua và cất giữ trái phép chất ma túy.

Bản Cáo trạng số 148/CT-VKS ngày 29/9/2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Đức H mức án từ 42 đến 48 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị phạt bổ sung bị cáo khoản tiền từ 5 đến 7 triệu đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói, lượng ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động Masstel, 01 ví giả da màu nâu, số tiền 13.150.000 đồng.

Về án phí: Bị cáo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện là đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về căn cứ xác định tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, báo cáo bắt giữ của lực lượng công an, kết luận giám định, vật chứng thu giữ, tài liệu khác có trong hồ sơ thể hiện: Hồi 11 giờ 15 phút ngày 11/6/2020, Nguyễn Đức H đã có hành vi cất giữ trái phép 3,79 gam chất bột màu trắng là loại Heroine tại khu vực trước cửa nhà số 1 Nhà Thương, quận Lê Chân, Hải Phòng với mục đích để sử dụng cho bản thân. Vì vậy đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đối với bị cáo Nguyễn Đức H về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần xử lý nghiêm.

- Về nhân thân:

[4] Bị cáo có một tiền án tuy đã được xóa án tích nhưng cho thấy bị cáo có quá trình nhân thân xấu, có ý thức coi thường pháp luật. Bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, do vậy cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Hội đồng xét xử thấy đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là có cơ sở nên căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, cần chấp nhận.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Đối với 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói, lượng ma túy còn lại sau giám định, đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với 01 điện thoại di động Masstel; 01 ví giả da màu nâu; số tiền 13.150.000 đồng thu giữ của bị cáo xét là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ số tiền 13.150.000 đồng để đảm bảo thi hành án phần hình phạt bổ sung.

- Về các vấn đề khác:

[10] Đối với việc H khai trước ngày bị bắt giữ khoảng 10 ngày H đã mua ma túy một lần của nam giới này, ngoài lời khai của H không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có cơ sở kết luận.

[11] Đối với nam giới đã bán ma túy cho H, H khai không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở điều tra làm rõ.

[12] Đối với Vũ Phạm Thắng là người điểu khiển xe máy chở H, Thắng không biết việc H mua và cất giữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có căn cứ xử lý.

[13] Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 16F4-3960 thu giữ của Vũ Phạm Thắng, quá trình điều tra xác định được là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của Thắng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho Thắng.

- Về án phí:

[14] Bị cáo hiện là người cao tuổi theo Luật Người cao tuổi nên căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Đức H 48 (bốn mươi tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 11 tháng 6 năm 2020.

Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 đ (năm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 344/PC09/2020 đựng vỏ bao gói và số ma túy còn lại sau giám định.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen có số IMEI1: 357213105287187; IMEI2: 357213105491185 và 01 ví giả da màu nâu.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 13.150.000 đồng thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án phần hình phạt bổ sung; trả lại cho bị cáo số tiền còn lại.

(Theo biên bản giao, nhận tài sản vật chứng ngày 30/9/2020 giữa Công an Quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; biên lai thu tiền số 0004592 ngày 30/9/2020).

Về án phí: Căn cứ Điều 2 Luật Người cao tuổi; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7A và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2020/HS-ST ngày 03/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:151/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về