Bản án 151/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 151/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 413/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 169/2020/QĐXX-ST ngày 22 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 127/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T; địa chỉ: Thôn 3, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Hoàng Phú T; địa chỉ: Thôn 3, xã K, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 10/6/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Thị T (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 05 ngày 28 tháng 01 năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau, anh T đã nhiều lần đánh chị T. Do mâu thuẫn, vợ chồng chị hiện đã sống ly thân. Nay, chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hoàng Phú T.

Về con chung: Chị Phạm Thị T khai: Chị và anh Hoàng Phú T có 03 con là Hoàng Thị L, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2005; Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2007 và Hoàng Phú Bảo Kh, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2010. Hiện chị T đang nuôi cả 03 con. Trường hợp ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T khai chị và anh Hoàng Phú T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Phạm Thị T khai: Chị và anh Hoàng Phú T không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 26 tháng 6 năm 2020, anh Hoàng Phú T (bị đơn) khai:

Về hôn nhân: Anh Hoàng Phú T thừa nhận lời khai của chị Phạm Thị T về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, nguyên nhân và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay chị T xin ly hôn, quan điểm của anh T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh T đồng ý ly hôn chị T.

Về con chung: Anh Hoàng Phú T khai anh và chị Phạm Thị T có 03 con là Hoàng Thị L, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2005; Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2007 và Hoàng Phú Bảo Kh, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2010. Trường hợp ly hôn, anh T có nguyện vọng được nuôi cả 03 con.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T khai: Anh và chị Phạm Thị T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Hoàng Phú T khai: Anh và chị T không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh T. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị T và anh T được ly hôn. Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T có 03 con là Hoàng Thị L, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2005; Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2007 và Hoàng Phú Bảo Kh, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2010. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng của các con chung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Hoàng Thị Ngọc A và Hoàng Phú Bảo Kh cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Hoàng Phú T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là là Hoàng Thị L cho đến khi con chung Hoàng Thị L đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Các đương sự thống nhất khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Phạm Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Hoàng Phú T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T được xác lập vào năm 2005 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn nên chị T và anh T hiện đã sống ly thân nhau. Chị T xin ly hôn, anh T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên cũng đồng ý ly hôn. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T được ly hôn. [3] Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T có 03 con là Hoàng Thị L, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2005; Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2007 và Hoàng Phú Bảo Kh, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2010. Hiện chị T đang nuôi cả 03 con. Khi ly hôn, chị T và anh T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện chị T, anh T có công việc ổn định. Mặt khác, con chung là Hoàng Thị L có nguyện vọng ở với bố. Hai con chung là Hoàng Thị Ngọc A và Hoàng Phú Bảo Kh có nguyện vọng được ở với mẹ. Vì vậy giao cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng 02 con là Hoàng Thị Ngọc A và Hoàng Phú Bảo Kh cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Hoàng Phú T trực tiếp nuôi dưỡng con là Hoàng Thị L cho đến khi con Hoàng Thị L đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T thống nhất khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Phạm Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị T và anh Hoàng Phú T.

2. Về con chung:

- Giao cho chị Phạm Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con là Hoàng Thị Ngọc A, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2007 và Hoàng Phú Bảo Kh, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2010 cho đến khi con Hoàng Thị Ngọc A và Hoàng Phú Bảo Kh đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

- Giao cho anh Hoàng Phú T được trực tiếp nuôi dưỡng con tên Hoàng Thị L, sinh ngày 18 tháng 9 năm 2005 cho đến khi con Hoàng Thị L đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0002014 ngày 12 tháng 6 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Phạm Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Phạm Thị T, anh Hoàng Phú T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:151/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về