Bản án 151/2019/HS-ST ngày 11/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 151/2019/HS-ST NGÀY 11/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 135/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo:

Lê Nguyễn Trường G (tên khác Z); sinh năm: 1999; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, nghề nghiệp: sửa xe; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Thành X; và bà: Nguyễn Thị Kim P; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 25/7/2017, bị Công an phường Linh Xuân xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị bắt, tạm giam ngày: 29/11/2018. (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Lê Thành X; sinh năm: 1976; trú tại: phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt)

Người làm chứng: Anh Trần Nhật N, sinh năm 1998. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 29/11/2018, Đội đặc nhiệm cảnh sát Hình sự Công an quận Thủ Đức tuần tra trước nhà số 102, đường số 4, khu phố 3, phường Tam Phú, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Lê Nguyễn Trường G đang tàng trữ trái phép chất ma túy, nên đưa về Công an phường Tam Phú làm rõ. Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Lê Nguyễn Trường G đã khai nhận: Bản thân G có sử dụng ma túy và G quen biết với người tên T ngoài xã hội. Khoảng 21 giờ ngày 29/11/2018, G điều khiển xe mô tô biển so 59G1-XXX đi từ tiệm sửa xe tại phường Tam Bình, quận Thủ Đức đến cầu Rạch Lùn, phường Linh Đông, quận Thủ Đức thì gặp T. T nhờ G chở đến ngã tư Bình Triệu, quận Thủ Đức. Trên đường đi, T hỏi G cần tiền xài không thì G nói không cần. Lúc này, T nhét 01 vật vào túi quần sau của G và nói “Anh nhét cái khẩu trang trong túi lát em về coi rồi biết”. Lúc này G đã biết T nhét ma túy vào túi quần của G và nghĩ đó là T trả công cho G đã chở T. Khi chở T đến ngã tư Bình Triệu thì G để T ở đó rồi quay về, trên đường về thì bị bắt.

Kết luận giám định số 110/KLGĐ-H ngày 07/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,0949g, loại Methamphetamine.

Vật chứng vụ án:

+ 01 gói niêm phong ghi số vụ 110/KLGĐ-H có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia.

+ 01 xe mô tô biển số 59G1-XXX

[2] Bản Cáo trạng số 142/CT-VKSTĐ ngày 02/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Lê Nguyễn Trường G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lê Nguyễn Trường G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, và các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Lê Nguyễn Trường G không tranh luận hoặc bào chữa gì, bị cáo nói lời sau cùng rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Nguyễn Trường G phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,0949g loại Methamphetamine. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Lê Nguyễn Trường G đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi cất giữ, tàng trữ một lượng ma túy nhất định, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước. Xét về nhân thân bị cáo, ngày 25/7/2017, bị Công an phường Linh Xuân xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần xử lý bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình được hưởng chính sách của liệt sỹ, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Do hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi số vụ 110/KLGĐ-H có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, là vật cấm lưu hành do đó cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 Điện thoại di động Nokia màu đen của bị cáo không liên quan đến vụ án, trả lại cho bị cáo.

- 01 xe mô tô biển số 59G1-XXX Qua xác minh, xe mô tô biển số 59G1-XXX do anh Phạm Ngọc L đứng tên sở hữu, hộ khẩu tại 29 TA10, khu phố 3, phường Thới An, Quận 12. Công an phường Thới An, Quận 12 xác nhận tại địa chỉ hên không có ai tên Phạm Ngọc L. G khai xe trên do cha tên Lê Thành X cho mượn sử dụng. Ông X khai xe trên mua từ tháng 11 năm 2017 của một người không nhớ rõ họ tên và cũng không làm thủ tục sang tên. Xét thấy xe không xác định được chủ sở hữu, nên cần thông báo tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của chiếc xe trên, nếu không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu chiếc xe để nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lê Nguyễn Trường G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Lê Nguyễn Trường G 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/11/2018.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự,

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi số vụ 110/KLGĐ-H có chữ ký của giám định viên Huỳnh Thanh Thảo, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định

+ Trả lại cho bị cáo: 01 Điện thoại di động Nokia màu đen.

+ Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của xe mô tô biển số biển số 59G1-XXX; số máy 062181-1S94, số khung 062180-940AY. Hết thời hạn 6 tháng mà không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu chiếc xe để nộp ngân sách nhà nước.

(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2019/142 ngày 14/5/2019, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức).

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Lê Nguyễn Trường G chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2019/HS-ST ngày 11/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:151/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về