Bản án 151/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 151/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 07 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm,công khai vụ án hình sự thụ lý số: 152/TLST-HS ngày 16/10/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2019/QĐXXST-HS, ngày 21/10/2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Đình M; (Tên gọi khác: Không); sinh năm 1984; giới tính: Nam; ĐKHKTT: Thôn J, xã V, huyện G, tỉnh Hải Dương; nơi ở hiện nay: Thôn S, xã B, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Vũ Đình N, sinh năm 1948 và con bà Đặng Thị F (C); gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 3; vợ là: Đặng Thị L, sinh năm 1986 (Đã ly hôn); con: có 01 con sinh năm 2014; danh chỉ bản số 000000206 lập ngày 10/6/2019 tại Công an huyện K, Thành phố Hà Nội; tiền án: không; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt để tạm giam ngày 07/6/2019, hiện đang bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số II - Công an thành phố Hà Nội (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người bị hại: Nguyên đơn dân sự: Công ty R - Địa chỉ trụ sở: Số 256 Q3, phường W, quận H2, thành phố Hà Nội; Địa chỉ kho bãi: Km 11, Quốc lộ C, xã X, huyện K, thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn G2, sinh năm 1970 - Chức vụ: Giám đốc. (Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 40 phút ngày 08/4/2019, Công an đồn M2, huyện K, thành phố Hà Nội tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm của anh Lê Văn G2, sinh 1970 - trú tại: Số 256 Q3, quận H2, thành phố Hà Nội trình báo về việc: “Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 08/4/2019, Công ty Rdo anh G2 làm giám đốc phát hiện bị mất trộm 01 chiếc máy xúc hiệu Komatsu PC75-uu-2.1588 màu xanh. Sau đó, Công ty đã phát hiện chiếc máy xúc này bị kẻ gian di chuyển đánh xuống trước cổng Công ty bao bì D2, D3, V3, Hưng Yên”. Công an đồn M2 đã tiếp nhận tin báo, cử cán bộ xác minh, tiến hành chụp ảnh vật chứng, trích xuất camera ra bản ảnh và tạm giao vật chứng cho chủ sở hữu để bảo quản trông coi trong quá trình điều tra. (BL 34, 35, 35a, 35b, 78).

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 12/4/2019, Vũ Đình M đã lên Công an huyện K đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện K đã tạm giữ số đồ vật tài liệu Vũ Đình M giao nộp gồm: 01 mũ bảo hiểm hiệu GRS, kiểu A360K, chất liệu bằng nhựa ABS màu trắng bạc, đã đã qua sử dụng; 01 chiếc quần dài bằng vải màu đen, đã qua sử dụng; - 01 chiếc áo dài bằng len màu đỏ trắng, nâu, ghi, đã qua sử dụng; - 01 đôi giày màu tím than, dây màu nâu đã cũ; - 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu đen, đã qua sử dụng; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu đen BKS: 34B3 - 905.60, đã qua sử dụng. (BL 56, 57, 58, 59) Tại Cơ quan điều tra, Vũ Đình M khai nhận: Khoảng 08h00 ngày 08/4/2019, Vũ Đình M điều khiển xe máy Honda Wave BKS: 34B3 - 905.60 đi từ nhà lên Hà Nội để đi chơi. Khi đi đến khu vực cầu vượt Phú Thụy, xã X, huyện K, thành phố Hà Nội thì thấy có nhiều máy xúc ở ven đường nên M có ý G2 vào xem máy xúc để mua. Tại bãi máy xúc của công ty Minh Thanh ở sát Quốc lộ C hướng từ Hà Nội đi Hải Phòng thì thấy ở cửa bãi xe có 01 chiếc máy xúc nhãn hiệu KOMATSU PC75-uu-2.1588 màu xanh để ở ngoài, bên trong cabin vẫn cắm chìa khóa nên M nảy sinh ý G2 trộm cắp chiếc máy xúc trên. Sau đó, M đi cất giấu xe máy tại một ngõ nhỏ cách công ty Minh Thanh khoảng 50m rồi đi bộ ra chỗ máy xúc, trèo lên cabin nổ máy rồi điều khiển chiếc máy xúc đi dọc Quốc lộ C hướng từ Hà Nội đi Hải Phòng. Khi đi được khoảng 01km thì M dừng lại trước cửa Công ty bao bì D2 sau đó thuê xe ôm đi đến chỗ giấu xe máy lấy xe rồi quay lại chỗ dừng máy xúc rồi dùng điện thoại gọi người đàn ông tên là Hải đến để chở chiếc máy xúc về Hải Dương. Khi Huy đang trao đổi với người chuyên chở máy xúc thì thấy chủ máy xúc đến nên đã điều khiển xe máy bỏ đi. Anh Lê Văn G2, sinh năm 1970 trú tại số 256 Q3, quận H2, thành phố Hà Nội - là Giám đốc Công ty Minh Thanh, sau khi tìm được máy xúc đã tới Công an huyện K để làm đơn trình báo.

Kết luận định giá tài sản số 57/KL - HĐĐG ngày 04/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K: Tại thời điểm ngày 08/4/2019: 01 chiếc máy xúc nhãn hiệu KOMATSU PC75UU-3, màu xanh, số khung 15888, đã qua sử dụng, có giá 350.000.000 đồng. (BL 24)

Ngày 06/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện K đã ra quyết định xử lý vật chứng và trao trả lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Thanh là chủ sở hữu của chiếc máy xúc do ông Lê Văn G2 là đại diện theo pháp luật. Ông G2 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu M bồi thường và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho M. (BL 82)

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện K bị cáo Vũ Đình M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Với nội dung trên tại bản Cáo trạng số 152/CT-VKSGL, ngày 14/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã quyết định truy tố bị cáo Vũ Đình M ra trước tòa với tội danh “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo Vũ Đình M đã thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại Cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận đã có hành vi trộm cắp tài sản của Công ty R vào sáng ngày 08/4/2019 là: 01 chiếc máy xúc nhãn hiệu KOMATSU PC75UU-3 màu xanh, số khung1588, đã qua sử dụng có giá: 350.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 152/CT-VKSGL, ngày 14/10/2019. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo đã đưa ra những chứng cứ, lý lẽ kết tội đối với bị cáo. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Đình M phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Vũ Đình M mức án phạt tù từ 08 năm tù đến 08 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/6/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại - Nguyên đơn dân sự là Công ty R - Địa chỉ trụ sở: Số 256 Q3, phường W, quận H2, thành phố Hà Nội - Địa chỉ kho bãi: Km 11, Quốc lộ C, xã X, huyện K, thành phố Hà Nội

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn G2 - Chức vụ: Giám đốc đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên không xem xét, giải quyết.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tịch thu và tiêu hủy:

- 01 chiếc mũ bảo hiểm hiệu GRS, kiểu A360K, chất liệu bằng nhựa ABS màu trắng bạc, đã qua sử dụng;

- 01 chiếc quần dài bằng vải màu đen, đã qua sử dụng;

- 01 chiếc áo dài bằng len màu đỏ, trắng, nâu ghi, đã cũ;

- 01 đôi giày màu tím than, dây màu nâu, đã qua sử dụng; Trả lại tài sản cho bị cáo Vũ Đình M: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu đen, đã qua sử dụng và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda; số loại: WAVE RSX; màu sơn: đen, xám; BKS: 34B3 - 905.60; số máy: JA38B0309556; số khung: 3828GY145551; dung tích: 109; xe đã qua sử dụng.

Bị cáo Huy sau khi nghe quan điểm luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện K, bị cáo thừa nhận có tội và thừa nhận hành vi Trộm cắp tài sản của mình là sai, vi phạm pháp luật. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình để chăm sóc Bố vì hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Tại phiên toà người bị hại, nguyên đơn dân sự là Công ty R - Địa chỉ trụ sở: Số 256 Q3, phường W, quận H2, thành phố Hà Nội - Địa chỉ kho bãi: Km 11, Quốc lộ C, xã X, huyện K, thành phố Hà Nội - Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn G2 - Chức vụ: Giám đốc đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông G2 có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Ông G2 đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Sau khi nghe ý kiến của vị đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo. Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Công an huyện K, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Đình M: Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đình M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng. Lời khai nhận tội của bị cáo M tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản thu giữ vật chứng, bản kết luận giám định, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 08h00 ngày 08/4/2019, bị cáo M điều khiển xe máy Honda Wave BKS: 34B3 - 905.60 đi từ nhà đến khu vực cầu vượt Phú Thụy, xã X, huyện K, thành phố Hà Nội thì thấy có nhiều máy xúc ở ven đường nên bị cáo Huy có ý G2 vào xem máy xúc để mua. Tại bãi máy xúc của Công ty TNHH Minh Thanh ở sát Quốc lộ C hướng từ Hà Nội đi Hải Phòng thì bị cáo thấy ở cửa bãi xe có 01 chiếc máy xúc nhãn hiệu KOMATSU PC75UU-3, màu xanh để ở ngoài, bên trong cabin vẫn cắm chìa khóa, xung quanh không có người trông giữ nên bị cáo M nảy sinh ý G2 trộm cắp chiếc máy xúc trên. Sau đó, M đi cất giấu xe máy tại một ngõ nhỏ cách Công ty TNHH Minh Thanh khoảng 50m rồi đi bộ ra chỗ máy xúc, trèo lên cabin nổ máy rồi điều khiển chiếc máy xúc đi dọc Quốc lộ C hướng từ Hà Nội đi Hải Phòng. Khi đi được khoảng 01km thì M dừng lại trước cửa Công ty bao bì D2 sau đó M thuê xe ôm đi đến chỗ giấu xe máy lấy xe rồi quay lại chỗ dừng máy xúc rồi dùng điện thoại gọi người đàn ông tên là Hải đến để M thuê chở chiếc máy xúc M vừa trộm cắp được về Hải Dương. Khi M đang trao đổi với người chuyên chở máy xúc thì thấy chủ máy xúc đến nên đã điều khiển xe máy bỏ đi. Ông Lê Văn G2, sinh năm 1970 trú tại số 256 Q3, quận H2, thành phố Hà Nội - là Giám đốc Công ty TNHH Minh Thanh, sau khi tìm được máy xúc đã tới Công an huyện K để trình báo. Ngày 12/4/2019 Vũ Đình M có đơn xin đầu thú tại Công an huyện K. Ngày 07/6/2019 bị cáo Huy bị Công an huyện K bắt để tạm giam.

[4]. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 57/KL-HĐĐG ngày 04/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện K kết luận: Tại thời điểm ngày 08/4/2019: 01 chiếc máy xúc nhãn hiệu KOMATSU PC75UU-3 màu xanh, số khung 15888, đã qua sử dụng có giá 350.000.000 đồng (Ba trăm năm mươi triệu đồng).

[5]. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 11h 00 ngày 08/4/2019, tại khu vực kho bãi của Công ty R tại Km 11, Quốc lộ C, thuộc địa phận xã X, huyện K, thành phố Hà Nội lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ tài sản bị cáo Huy có hành vi lén lút, bí mật trộm cắp chiếc máy xúc đã qua sử dụng nhãn hiệu KOMATSU PC75UU-3, màu xanh, số khung 15888, có giá 350.000.000 đồng. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đủ tuổi, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo Vũ Đình M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Chi tiết Điều 173:

Tội trộm cắp tài sản

1…………….

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

…………”.

[6]. Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Viện kiển sát: khẳng định nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K, truy tố bị cáo Vũ Đình M ra trước Tòa về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quan điểm của Viện Kiểm sát là có căn cứ pháp luật. Mức hình phạt của Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo nhận tội và không có ý kiến bào chữa, tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[7]. Đánh giá tính chất vụ án: Đánh giá tính chất vụ án là rất nghiêm trọng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực dân sự và nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vì mục đích tư lợi nên bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm minh tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[8]. Về nhân thân bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Hội đồng xét xử đánh giá bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình để Cơ quan cảnh sát điều tra, điều tra kết thúc vụ án sớm và đây là lần đầu bị cáo bị truy tố, xét xử. Vì vậy, bị cáo Huy được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, bị cáo Huy không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[9]. Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo Vũ Đình M: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[10]. Về trách nhiệm dân sự: Công ty R - Địa chỉ trụ sở: Số 256 Q3, phường W, quận H2, thành phố Hà Nội - do ông Lê Văn G2 - Chức vụ: Giám đốc làm người đại diện theo pháp luật đã nhận lại tài sản, đến nay không có yêu cầu gì khác về tài sản đã nhận nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[11]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen BKS: 34B3 - 905.60 và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu đen, đã qua sử dụng mà bị cáo Huy đã giao nộp cho Cơ quan Công an huyện K, quá trình điều tra, xác minh xác G2 chiếc xe máy, điện thoại trên là của Vũ Đình M, do Huy lao động mà có. Đây là vật chứng liên quan đến tội phạm nhưng do hoàn cảnh của bị cáo rất khó khăn chiếc xe máy, điện thoại là phương tiện duy nhất phục vụ việc đi lại, liên lạc hàng ngày nên cần thiết trả lại cho bị cáo Huy số tài sản này.

- Đối với 01 mũ bảo hiểm hiệu GRS, kiểu A360K, chất liệu bằng nhựa ABS màu trắng bạc, đã cũ; 01 chiếc quần dài bằng vải màu đen đã cũ, 01 chiếc áo dài bằng len màu đỏ trắng nâu ghi đã cũ; 01 đôi giày màu tím than, dây màu nâu đã cũ, bị cáo Huy đã mặc vào thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 08/4/2019. Đây là vật chứng liên quan đến tội phạm và không còn giá trị sử dụng, tại phiên tòa bị cáo không có nguyện vọng nhận lại số tài sản này nên cần thiết tịch thu và tiêu hủy.

[12]. Các vấn đề khác trong vụ án: Đối với người đàn ông tên Hải mà Huy đã gọi để chở máy xúc về Hải Dương, Huy khai không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể của Hải, bản thân Huy biết số điện thoại của Hải do khi đi đường thấy biển quảng cáo nên đã lưu vào máy, sau khi sự việc xảy ra Huy đã xóa số điện thoại của Hải và không còn nhớ số điện thoại của Hải nữa. Huy khai khi thuê Hải chở máy xúc, Huy không nói cho Hải biết về việc mình đã trộm cắp chiếc máy xúc trên. Do đó, cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh và xử lý Hải.

[13]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[14]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đình M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Vũ Đình M 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng . Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/6/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Vũ Đình M.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tịch thu và tiêu hủy:

- 01 chiếc mũ bảo hiểm hiệu GRS, kiểu A360K, chất liệu bằng nhựa ABS màu trắng bạc, đã qua sử dụng;

- 01 chiếc quần dài bằng vải màu đen, đã qua sử dụng; - 01 chiếc áo dài bằng len màu đỏ, trắng, nâu ghi, đã cũ;

- 01 đôi giày màu tím than, dây màu nâu, đã qua sử dụng.

- Trả lại tài sản cho bị cáo Vũ Đình M: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu đen, đã qua sử dụng và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda; số loại: WAVE RSX; màu sơn: đen, xám; BKS: 34B3 - 905.60; số máy: JA38B0309556; số khung: 3828GY145551; dung tích: 109; xe đã qua sử dụng.

( Số vật chứng, tài sản trên có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện K đang quản lý theo Biên bản bàn giao vật chứng, tài sản lập ngày 16/10/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Vũ Đình M phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt bị cáo. Vắng mặt người bị hại. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại là nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:151/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về