Bản án 151/2018/HS-ST ngày 30/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN - TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 151/2018/HS-ST NGÀY 30/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 123/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 151/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Quang T, sinh năm 1991 tại: Tỉnh N; nơi thường trú: Số 49/4, N, Phường 6, quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: Cắt tóc; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân Th, sinh năm 1953 và bà Đào Thị D, sinh năm 1954; bị cáo có 04 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất là bị cáo; vợ tên Nguyễn Thùy D, sinh năm 1989 (đã ly hôn); bị cáo có 01 người con, sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27 tháng 3 năm 2018 cho đến nay, có mặt.

Người làm chứng:

- Bà Cao Thị Thu C, sinh ngày 21/6/2000; thường trú: Ấp T, xã T, huyện V, thành phố C (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

- Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1995; thường trú: Ấp T, xã T, huyện V, thành phố C (vắng mặt).

- Ông Lý Hồng D, sinh năm 1997; thường trú: Ấp P, xã T, huyện V, thành phố C (vắng mặt).

Người chứng kiến: Ông Huỳnh Thanh C, sinh năm 1958; Số 1/95, khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh B (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 27/3/2018, Công an phường Thuận Giao tiến hành kiểm tra hành chính cơ sở trọ T6/70 thuộc khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh B. Tại phòng trọ B10 do Nguyễn Thanh H thuê, lực lượng công an phát hiện và thu giữ một bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Công an phường Thuận Giao thông báo cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An ra lệnh khám xét khẩn cấp phòng trọ B10, lúc này trong phòng trọ có Lý Hồng D, Cao Thị Thu C và Trần Quang T. Quá trình khám xét, cơ quan điều tra thu giữ trong ví da ở túi quần bên phải phía sau của T có 02 túi nilon miệng kéo dính, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy đá) nên lập biên bản thu giữ.

Quá trình điều tra xác định: Trần Quang T là đối tượng nghiện ma túy, số ma túy thu giữ là do Thanh mua của một đối tượng không rõ nhân thân lai lịch vào ngày 26/3/2018 tại huyện B, Thành phố H với giá 500.000 đồng. Bộ dụng cụ sử dụng ma túy tại phòng trọ B10 là do T mang tới để sử dụng ma túy.

Những người làm chứng Cao Thị Thu C, Nguyễn Thanh H, Lý Hồng D thống nhất khai nhận về các tình tiết trong vụ án và xác định không biết việc bị cáo T cất giấu ma túy trong người.

Tang vật thu giữ gồm: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 02 túi nilon miệng kéo dính, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy đá) được niêm phong trong bì thư bên ngoài có chữ ký của cán bộ niêm phong Trương Vương K, chữ ký của bị cáo T và dấu tròn đỏ của Công an phường Thuận Giao.

Tại Bản kết luận giám định số 188/MT-PC54 ngày 02/4/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 0,3313 gam.

Tại Bản cáo trạng số 138/CT-VKS-TA ngày 05 tháng 7 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Quang T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát vẫn giữ quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo T từ 01 năm 03 tháng từ đến 01 năm 06 tháng tù. Ngoài ra đại diện Viện Kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án nhẹ để bị cáo sớm làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Thuận An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét thấy: Người làm chứng Cao Thị Thu C, sinh ngày 21/6/2000, tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thì người làm chứng chưa đủ 18 tuổi. Theo quy định tại Điều 421 Bộ luật Tố tụng hình sự thì việc lấy lời khai của người làm chứng dưới 18 tuổi phải có người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự, tuy nhiên trong các biên bản lấy lời khai của người làm chứng không có chứng cứ thể hiện có sự tham dự của người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người làm chứng. Do đó, việc điều tra, lấy lời khai người làm chứng chưa đủ 18 tuổi của Cán bộ điều tra, Điều tra viên là có vi phạm thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, xét thấy đến thời điểm Tòa án đưa vụ án ra xét xử thì người làm chứng đã đủ 18 tuổi. Người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và giữ nguyên nội dung tất cả lời khai tại cơ quan điều tra Công an thị xã Thuận An nên xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng cần rút kinh nghiệm về sau để việc điều tra, truy tố được thực hiện đúng quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.

 [2] Tại phiên toà, bị cáo Trần Quang T khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng tại cơ quan điều tra và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở kết luận:

Trần Quang T là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 27/3/2018, tại nhà trọ số B10 thuộc cơ sở trọ T6/70 thuộc khu phố B, phường T, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, bị cáo T cất giữ trong túi quần 0,3313 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An bắt giữ. Với hành vi và định lượng ma túy nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, bản Cáo trạng số 138/CT-VKS-TA ngày 05/7/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Ngoài ra, ma túy là một loại chất độc dược gây ra tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội và nhiều căn bệnh hiểm nghèo, tạo gánh nặng cho xã hội. Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến phát sinh các loại tội phạm khác. Về nhận thức, bị cáo hoàn toàn biết hành vi tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện bản chất xem thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

 [3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

 [3.1] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

 [3.2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

 [3.3] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự m2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

 [4] Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng từ đến 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,2608 gam ma túy loại Methamphetamine (mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy là vật chứng thu giữ trong vụ án không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

 [6] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo T do không xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

 [7] Đối với những người làm chứng Cao Thị Thu C, Nguyễn Thanh H, Lý Hồng D: Qua biên bản kiểm tra, chẩn đoán người nghiện ma túy cho thấy C, H, D cũng là các đối tượng nghiện ma túy. Ngày 27/3/2018, những người làm chứng không biết bị cáo T cất giấu ma túy trong người, Công an phường Thuận Giao, thị xã Thuận An đã lập thủ tục xử lý vi phạm hành chính đối với những người làm chứng là có cơ sở.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo T phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

Điểm c, Khoản 1, Điều 249; Khoản 1, Điều 47; Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trần Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Quang T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 3 năm 2018.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư được niêm phong ký hiệu số vụ 188/MT-PC54 (mẫu vật hoàn lại sau giám định có trọng lượng 0,2608 gam); 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05 tháng 7 năm 2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An).

3. Về án phí: Bị cáo Trần Quang T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 151/2018/HS-ST ngày 30/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:151/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về