Bản án 150/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 150/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 131/2021/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 237/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1985; nơi ĐKHKTT: Thôn PQ, xã ĐĐ, huyện KT, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: 807, 101-dong Hanbo Town, 1386, jisamro, jeongdong-myeon, Sachoen-si, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc;

vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức L, sinh năm 1983; nơi cư trú: Xóm 3, thôn ĐT, xã ĐP, huyện KT, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 21 tháng 6 năm 2021 và các lời khai gửi đến Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Đức L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐP, huyện KT, thành phố Hải Phòng vào ngày 16 tháng 02 năm 2012. Sau khi kết hôn, chị và anh L về chung sống với nhau, thời gian đầu, công việc của anh L đi làm xa một tuần về một lần, chị làm may ở nhà, được vài tháng thì anh L nghỉ việc hẳn ở nhà, thời gian đó, vợ chồng chị ở gần nhau nhưng thường xuyên cãi nhau. Đến năm 2013, chị sinh con đầu lòng, cuộc sống ngày càng khó khăn hơn dẫn đến vợ chồng hay bất đồng về quan điểm sống, đã rất nhiều lần anh L đánh chị khiến chị phải bỏ về ngoại ở. Đến năm 2017, chị chuyển hẳn hộ khẩu về ngoại và đã làm thủ tục sang Hàn Quốc sinh sống cùng em gái, chính thức sống ly thân với anh L từ đó đến nay. Hiện nay chị đã ở Hàn Quốc được 4 năm, cũng là khoảng thời gian vợ chồng chị và anh L mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng không còn nên chị đã có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Đức L.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Đức L có một con chung là cháu Nguyễn Thị Nhã U sinh ngày 30 tháng 4 năm 2013. Hiện cháu Nguyễn Thị Nhã U đang ở cùng anh Nguyễn Đức L. Ly hôn, do điều kiện chị ở nước ngoài không nhận nuôi con được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết giao cháu Nguyễn Thị Nhã U cho anh Nguyễn Đức L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nguyễn Thị Nhã U trưởng thành hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung: Chị và anh Nguyễn Đức L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, bị đơn là anh Nguyễn Đức L trình bày thống nhất với chị Nguyễn Thị H về thời gian kết hôn, quá trình chung sống và mâu thuẫn vợ chồng. Anh Nguyễn Đức L có quan điểm đồng ý với yêu cầu ly hôn mà chị Nguyễn Thị H đưa ra. Anh Nguyễn Đức L thống nhất với lời khai của chị Nguyễn Thị H về việc vợ chồng có một con chung là cháu Nguyễn Thị Nhã U sinh ngày 30 tháng 4 năm 2013, ly hôn anh đồng ý nhận trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Nhã U cho đến khi cháu Nguyễn Thị Nhã U trưởng thành hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung, anh Nguyễn Đức L có cùng có quan điểm với chị Nguyễn Thị H là hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do chị Nguyễn Thị H đang ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 2 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án.

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ, cũng như lời trình bày của các đương sự,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị H có đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Nguyễn Đức L. Đây là vụ án hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H hiện đang cư trú ở nước ngoài, bị đơn anh Nguyễn Đức L hiện đang cư trú ở thành phố Hải Phòng nên theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên toà, chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L đều vắng mặt và đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đã được Ủy ban nhân dân xã ĐP, huyện KT, thành phố Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 16 tháng 02 năm 2012. Theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L cùng thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, trong quá trình chung sống vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, hiện mỗi người sống một nước, không ai quan tâm đến ai, không còn yêu thương nhau. Nay, cả hai bên cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên việc chị Nguyễn Thị H có đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Đức L là có căn cứ chấp nhận. Xét quan hệ hôn nhân của chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L là không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đề nghị xin được ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Nguyễn Đức L.

[4] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L có một con chung là cháu Nguyễn Thị Nhã U sinh ngày 30 tháng 4 năm 2013. Vợ chồng chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L sống ly thân từ năm 2017, cháu Nguyễn Thị Nhã U vẫn sinh sống ổn định với anh Nguyễn Đức L từ đó đến nay. Hiện chị Nguyễn Thị H đang ở nước ngoài không thể nhận nuôi con, anh Nguyễn Đức L có quan điểm đồng ý nhận trực tiếp nuôi con, bản thân cháu Nguyễn Thị Nhã U cũng có nguyện vọng được ở với bố. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Nguyễn Thị Nhã U cho anh Nguyễn Đức L được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế, phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H là nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 207, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 273, điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 2 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đức L.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Nhã U sinh ngày 30 tháng 4 năm 2013 cho anh Nguyễn Đức L được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L không ai yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức L không ai yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghin) đông an phí dân sự sơ thẩm . Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghin ) đông theo biên lai số 0019917 ngày 09 tháng 8 năm 2021 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng . Chị Nguyễn Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Chị Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Đức L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 150/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:150/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về