TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 150/2020/HS-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 12 tháng 8 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 136/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 155/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:
Hồ T, sinh năm 1992 tại Thành phố Hà Nội; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã T, huyện L, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ T, sinh năm: 1966 và bà Đặng H, sinh năm: 1967; bị cáo có vợ là Phạm N, sinh năm: 1991 và 02 con, lớn sinh năm: 2012, nhỏ sinh năm: 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú – có mặt.
- Bị hại: Ông Nguyễn H, sinh năm 1981; đăng ký thường trú: Thôn N, xã H, huyện P, tỉnh Bắc Ninh – vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Bà Nguyễn L, sinh năm 1984; đăng ký thường trú: Thôn N, xã H, huyện P, tỉnh Bắc Ninh; đăng ký tạm trú: Khu phố 2, phường P, thị xã C, tỉnh Bình Dương – vắng mặt.
2. Bà Phạm N, sinh năm 1991; đăng ký thường trú: Thôn Y, xã T, huyện L, Thành phố Hà Nội – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vợ chồng Hồ T, Phạm N đến sống tại số nhà 42/4, khu phố 1, phường P, thị xã C, tỉnh Bình Dương và làm nghề buôn bán thịt heo tại chợ C. Tại đây, T có quen biết với ông Nguyễn H và bà Nguyễn L (ông H và bà L đã ly hôn ngày 04/12/2019).
Vào khoảng 17 giờ ngày 08/12/2019, bà L đang ở tại số nhà 462A, tổ 13, khu phố 2, phường P thì ông H đến để lấy đôi giày của mình ở nhà bà L. Khi gặp bà L, ông H lao vào dùng tay nắm tóc và đánh vào mặt của bà L, sau đó vào nhà lấy giày rồi bỏ đi. Sau khi bị đánh, bà L có nhận được điện thoại của bà N rủ lên nhà bà N ăn uống, bà L kể cho bà N nghe việc bị đánh và từ cùng nhau ăn uống. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, H dừng xe trước cửa nhà bà L bóp còi nhưng bà L không ra mở cửa. Một lúc sau, N ra mở cửa cho H vào. H vào ngồi chung mọi người và hỏi bà L vì sao không ra mở cửa. H dùng tay tát vào mặt bà L, giật tóc bà L rồi cầm chai nước trà xanh (bên trong còn nước) đập vào đầu bà L. Thấy vậy T và N lao vào can ngăn, bà L chạy thoát được ra trước sân. H cầm một ống điếu chạy theo, giật tóc bà L và định đánh bà L. Lúc này, T chạy ra ôm H từ phía sau để can ngăn thì bị H dùng tay đánh vào người T. T dùng tay đánh lại H. Cả hai vật nhau xuống nền gạch trước sân. T ngồi đè lên trên người của H, dùng tay đấm vào vùng mắt và đầu của H 04 cái rồi đứng dậy đi ra trước nhà đứng cùng với L và N. Sau khi sự việc xảy ra, L đến Công an phường P trình báo sự việc còn H đến Phòng khám đa khoa N điều trị nhưng do thương tích nặng nên H được chuyển đến Bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 26/02/2020, Trung tâm Giám định pháp y tỉnh Bình Dương có bản kết luận giám định pháp y số 76/2020/GĐPY kết luận: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Nguyễn H là 41%.
Tại Cơ quan điều tra Công an thị xã C, Hồ T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn H yêu cầu bị cáo T bồi thường 150.000.000 đồng tiền chi phí điều trị thương tích và tổn thất tinh thần. Ngày 08/5/2020, Hồ T đã tự nguyện giao nộp 50.000.000 đồng để bồi thường cho ông Nguyễn H. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, hai bên đã tự thương lượng mức bồi thường là 100.000.000 đồng, bị cáo T đã bồi thường xong. Ông H không yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Bản Cáo trạng số 145/CT-VKSBC ngày 05/7/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Hồ T về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi cố ý gây thương tích như nội dung Cáo trạng nêu trên và không có ý kiến gì khác.
Tại phần tranh luận:
- Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C trình bày luận tội:
+ Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C tại Bản Cáo trạng số 145/CT-VKSBC ngày 05/7/2020 đối với bị cáo Hồ T về tội: “Cố ý gây thương tích”;
+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Hồ T từ 02 (hai) năm đến 02 (năm) 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm đến 05 (năm).
- Bị cáo không bào chữa, không phát biểu ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo Hồ T: Bị cáo nhận thức hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật hình sự nên đồng ý với quyết định truy tố của Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã C, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Hồ Thanh Tùng tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, do đó có đủ cơ sở kết luận: Do bực tức khi thấy ông H đánh bà L và bản thân bị ông Nguyễn H đánh, bị cáo Hồ T đã có hành vi dùng tay đấm vào vùng mắt và vùng đầu của ông Nguyễn H dẫn tới thương tích cho bị hại. Theo Kết luận giám định: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của ông H là 41 % (bốn mươi mốt phần trăm). Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Bản Cáo trạng số 145/CT-VKSBC ngày 05/7/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Hồ T với tội danh, điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[3.1] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, không những xâm hại trực tiếp đến sức khỏe của người khác mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vẫn cố ý thực hiện, bất chấp hậu quả gây tổn hại đến sức khỏe của người khác. Do đó đối với bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật định là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này, người bị hại Nguyễn H có hành vi trái pháp luật là đánh vợ cũ (bà L), khi bị cáo can ngăn thì H đánh cả bị cáo. Do đó, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ: “Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[4] Bị cáo Hồ T có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Xét thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội nên không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cần áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng án treo nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục.
[5] Lời đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo đã gây ra cũng như nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được áp dụng nên có cơ sở chấp nhận.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Hồ T đã bồi thường cho bị hại số tiền 100.000.000 đồng. Ông H không có yêu cầu gì thêm nên không đặt vấn đề xem xét giải quyết.
[7] Đối với hành vi xâm phạm sức khỏe người khác của ông Nguyễn H: Ngày 18/5/2020 bà L có đơn không yêu cầu giám định thương tích và không yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 27/5/2020, Công an thị xã C đã ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với ông H là phù hợp.
[8] Về biện pháp tư pháp: Trả lại cho bị cáo 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) là số tiền bị cáo tự nguyện nộp để khắc phục hậu quả.
[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 260, Điều 299, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Hồ T phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt:
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 134; điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điểm d khoản 1 Điều 125 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Hồ T 02 (hai) năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Hồ T cho Ủy ban nhân dân phường xã T, huyện L, Thành phố Hà Nội giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp Hồ T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 02/2020/HSST-LCCT ngày 06/7/2020 đối với bị cáo Hồ T kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
2. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.
3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Trả lại cho bị cáo số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) đã nộp vào tài khoản số 3949.0.1046035 tại Kho bạc Nhà nước thị xã C ngày 16/7/2020.
4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Hồ T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án 150/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 150/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về