Bản án 150/2019/HNGĐ-ST ngày 17/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TNH AN GIANG

BẢN ÁN 150/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 17 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 250/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 163/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: anh Hồ Văn T, sinh năm: 1981. (Có mặt)

Địa chỉ: ấp H, xã X, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn: chị Nguyễn Thị N, sinh năm: 1989. (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn anh Hồ Văn T trình bày: anh và chị N quen biết, tìm hiểu và kết hôn năm 2007, vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Hội Xuân, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Thời gian chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cự cãi, vợ chồng không còn chung sống với nhau từ năm 2011 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, nay anh yêu cầu ly hôn với chị N.

- Về con chung: có 01 con chung tên Hồ Thị Thu T, sinh ngày: 30/7/2007 hiện do chị N đang nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, anh đồng ý để chị N tiếp tục nuôi con chung.

- Về mức cấp dưỡng nuôi con chung: tại đơn khởi kiện anh T đồng ý cấp dưỡng cho cháu T mỗi tháng 700.000 đồng nhưng tại phiên tòa, anh T thay đổi yêu cầu đồng ý cấp dưỡng cho cháu T mỗi tháng 750.000 đồng cho đến khi thành niên và lao động được.

- Về tài sản chung: không có.

- Về nợ chung: không có.

Bị đơn chị Nguyễn Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị N vắng mặt không rõ lý do. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của chị N về nội dung đơn khởi kiện của anh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Anh Hồ Văn T yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị N. Chị N có nơi cư trú tại ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn chị Nguyễn Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: anh Hồ Văn T và chị Nguyễn Thị N xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, anh được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống, do tính tình không phù hợp nên vợ chồng thường xuyên cự cãi, mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, hôn nhân không hạnh phúc. Anh T, chị N không muốn hàn gắn tình cảm và không còn chung sống với nhau khoảng 08 năm.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị N cũng không gửi cho Tòa án ý kiến cũng như không tham gia các phiên hòa giải, nên Tòa án đã lập biên bản tiến hành hòa giải không hòa giải được. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân của anh T và chị N không thể tiếp tục, cả hai không muốn hàn gắn và không còn chung sống với nhau một thời gian dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: có 01 con chung tên Hồ Thị Thu T, sinh ngày: 30/7/2007 hiện do chị N đang nuôi dưỡng. Trước đây vợ chồng cùng nuôi con chung nhưng từ khi vợ chồng không còn sống chung thì cháu T sống với chị N cho đến nay. Anh T đồng ý để chị N tiếp tục nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy cháu T sống với chị N từ nhỏ, được chị N chăm sóc tốt và đảm bảo về mọi mặt về chỗ ở, môi trường học tập cho cháu nên tâm tư, tình cảm của cháu gắn liền với mẹ. Do đó, để tạo điều kiện ổn định cho sự phát triển về thể chất và tinh thần cho cháu Trang, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Trang cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc là phù hợp với quy định pháp luật.

[5] Về mức cấp dưỡng nuôi con chung: anh T tự nguyện cấp dưỡng cho cháu T mỗi tháng 750.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án không ghi nhận được ý kiến của chị N về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con cũng như không có ý kiến phản đối về việc anh T cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của anh T cấp dưỡng cho cháu T mỗi tháng 750.000 đồng cho đến khi cháu T thành niên và lao động được.

Anh T không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng anh có quyền tới lui trông nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản anh T thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: ghi nhận ý kiến của anh Hồ Văn T trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: anh Hồ Văn T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Các Điều 28, 35, 146, 147, 227, 228, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Văn T.

- Về quan hệ hôn nhân: anh Hồ Văn T được ly hôn với chị Nguyễn Thị N. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 10 ngày 19/02/2009 do UBND xã X, huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: chị Nguyễn Thị N được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Hồ Thị Thu T, sinh ngày: 30/7/2007. Anh Hồ Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Hồ Thị Thu T mỗi tháng 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) kể từ tháng 8/2019 cho đến khi cháu T thành niên.

Anh Hồ Văn T không trực tiếp nuôi con chung nhưng anh có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản anh T thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: ghi nhận anh Hồ Văn T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì anh Hồ Văn T và chị Nguyễn Thị N vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: anh Hồ Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) và án phí cấp dưỡng là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Tổng cộng là 600.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0012739 ngày 11/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Anh T phải tiếp tục nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Anh Hồ Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 150/2019/HNGĐ-ST ngày 17/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:150/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về